THỰC CHẤT CỦA 16 CHỮ VÀNG
Bối cảnh ra đời phương châm
Tháng 11 năm 1991, sau khi Trung Quốc và Việt Nam thực hiện bình thường hoá quan hệ, nhà lãnh đạo cấp cao hai đảng, hai nước liên tiếp đi thăm lẫn nhau, sự giao lưu và hợp tác giữa hai bên trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, văn hoá ngày càng mở rộng và sâu sắc.
Do đặc thù địa lý tự nhiên, con người, chế độ xã hội và vận mệnh sống còn của hai đảng cầm quyền của hai nước hết sức gần gủi, gắn bó:
Sơn thủy tương liên,Lý tưởng tương thông,Văn hóa tương đồng,Vận mệnh tương quan.
Khởi tạo phương châm
Đầu năm 1999, Tổng bí thư Giang Trạch Dân đã đề ra và Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu đã đồng ý phương châm 16 chữ "Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện" đã xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, đánh dấu quan hệ Trung Việt đã bước vào giai đoạn phát triển mới được lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước xác định trong Tuyên bố chung, từ tháng 2/1999.
Xem vậy thì biết là:
16 chữ vàng khởi phát từ 1991 ( sau Hội nghị Thành Đô ), với NGUYÊN VĂN:
"Sơn thủy tương liên,Lý tưởng tương thông,Văn hóa tương đồng,Vận mệnh tương quan."
Mười sáu chữ vàng nguyên gốc nầy trói chặt VẬN MẠNG CỦA VIỆT NAM PHỤ THUỘC VÀO VẬN MẠNG CỦA TÀU PHÙ một cách quá lộ liểu nên chú nhỏ an nam cọng chơi trò láu cá, dịch ra thành:
" Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện"
Cho nó đở mất mặt hơn và nhất là để NÉ BÚA RÌU công luận của Dân Việt.
Thực chất 16 chữ vàng vẫn là:
Mười sáu Chữ Vàng trói đầu việt cọng
" Ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai,
láng giềng hữu nghị,
hợp tác toàn diện"
Dưới đây mới là nguồn gốc của 16 chữ vàng, vòng kim cô trói đầu hậu duệ hồ tinh phản quốc thay vì 4 câu được diễn đạt huê dạng nhẹ nhàng hơn trích dẫn ở trên:
Sơn thủy tương liên,
Lý tưởng tương thông,
Văn hóa tương đồng,
Vận mệnh tương quan.
Sơn thủy tương liên
Núi liền núi, sông liền sông
Oan oan tương báo suốt trường kỳ lịch sử
Dòng sông Hát hai Bà Trưng tự vẫn
Sông Bạch Đằng máu giặc vẫn còn tanh
Ngày nay giặc vẫn còn gieo họa
Nguyên Giang thượng nguồn chệt xã lũ
Châu thổ sông Hồng lũ lụt tứ giăng
Lan Thương giặc tàu ngăn đập chặn nguồn
Cửu Long đồng khô nứt nẻ hết phù sa
Ngày xưa Tô Thị trông vời phương Bắc
Ôm con cô đơn hóa đá Hòn Vọng Phu
Ngày nay máu đổ ngập tràn ngọn Lão Sơn
Thác Bản Giốc phân đôi đâu còn chung cảnh trí
Núi đã hết liền núi, sông liền sông chực chờ gây họa
Chữ tương liên hắc ám đâu phải chữ vàng
Lý tưởng tương thông
Ngày nay thế giới thục sự chỉ còn lại hai nước cọng sản Á Châu: trung cọng và việt cọng.
Cuba đã chánh thức xóa bỏ chủ nghĩa cong sản trên hiến pháp.
Triều Tiên đang thoát chệt bắt tay anh em Đại Hàn phương Nam.
Lý tưởng cọng sản thế giới đại đồng vô biên giới.
Thực tế, đồng chí tàu - việt từng phen chém giết nhau:
Mười năm 1979 - 1989 chiến tranh biên giới, máu đồng chí chảy ngập núi đồi Việt Bắc.
Ngày nay lý tưởng ( cọng sản ) chỉ còn tương thông trên đầu môi chót lưỡi.
Thực tế là tên nô tài việt cọng bị tàu phù cột chặt vì lệ thuộc cả Chánh trị - Kinh tế - Xã hội.
Văn hóa tương đồng
Thơ Thần Lý Thường Kiệt
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Sông núi nước Nam thì vua nước Nam cai quản
Rõ ràng đã được phân chia tại sách trời
Cớ làm sao bọn giặc ngỗ ngược kia đến đây xâm phạm
Rồi đây chúng bay sẽ thấy và nhận lấy sự thất bại hoàn toàn.
Bình Ngô Đại Cáo
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Nho Việt còn trước nho tàu Khổng tử
Làm cái mẹ rượt gì ta văn hóa tương đồng với chệt?!
Chỉ có bọn cỏ đuôi chó hồ tinh bác cụ ngu si dốt nát mới xum xoe bợ đít chệt khen cứt chệt thơm.
Vận mệnh tương quan
Diễn nôm cho gọn gàng dễ hiểu: Nó là Vành Đai trên biển và Con Đường Tơ Lụa trên đất liền.
Nghĩa là sáng kiến mở đường từ Biển Đông bung ra Ấn Độ Dương tiến tới Phi Châu - Âu Châu và cả Nam Mỹ.
Bọn cỏ đuôi chó Ba Đình theo đuôi hít bả mía bằng cái gọi là " sáng kiến Hai Hành lang - Một Vành đai ".
Nói cho lẹ là mở cả vùng 6 tỉnh biên giới và Điện Biên, kể luôn Hà Nội - Hải Phòng thành một vùng kinh tế phụ trợ cho Một Vành Đai chệt cọng:
Hàng hóa chệt lưu thông cả vùng biên giới, vận chuyển qua 2 hành lang là xa lộ cao tốc Lào Kay - Hà Nội - Hải Phòng và xa lộ Móng Cái Hà Nội xuống cảng Hải Phòng, dán nhản Made in VN để xuất cảng khắp nơi, nhất là Mỹ để trốn thuế cho nhẹ.
Vì bọn cẩu trệ hậu duệ già hồ ôm đít chệt đem vận mệnh Dân tộc - Đất nước cột chặt vào giặc tàu như vậy cho nên mai nầy khi Hoa Kỳ và Đồng minh đập tan tham vọng Một Vành đai Một Con đường, chệt cọng tiêu tùng thì việt cọng cũng tiêu vong.
Hết vận mạng tương quan!
Nguyễn Nhơn
Cuối Thu 2/12/2018
Thấm Đòn
Kim chích gai đâm chụp lên đầu
Cô hồn các đảng thái thú tàu
Mười anh phúc thọ đồng hồ cáo
Sáu khu linh kiệt mạnh chí sâu
Chữ nghĩa cải biên mưu bí hiểm
Vàng nhôm lọc thải kế thâm sâu
Bốn phía Biển Đông bò liếm lưỡi
Tốt nguồn tốt quặng chệt gồm thâu
Bình Dương Nguyễn Thị Ngoan
Phụ chú
Sông Hồng còn có các tên gọi khác như Hồng Hà (tiếng Trung: 紅河Honghe), hay sông Cái (người Pháp đã phiên tên gọi này thành Song-Koï). Đoạn chảy trên lãnh thổ Trung Quốc được gọi là Nguyên Giang(元江, bính âm: yuan2 jiang1), đoạn đầu nguồn có tên là Lễ Xã Giang (禮社江). Đoạn từ chảy từ Lào Cai đến "ngã ba Hạc" ở Việt Trì(Phú Thọ) được gọi là sông Thao, đoạn qua Hà Nội còn gọi là Nhĩ Hà hoặc Nhị Hà. Lịch sử Việt còn ghi sông với tên Phú Lương.1 giả thiết sông chảy qua châu tự trị Hồng Hà nên lấy tên Hồng Hà
Mekong Gần một nửa chiều dài con sông này chảy trên lãnh thổ Trung Quốc, ở đó đoạn đầu nguồn nó được gọi là Dza Chu trong tiếng Tây Tạngtức Trát Khúc (扎曲;bính âm: Zā Qū), và nói chung được gọi là Lan Thương Giangtrong tiếng Hán(瀾滄江; bính âm: Láncāng Jiāng; Wade-Giles: Lan-ts'ang Chiang), có nghĩa là "con sông cuộn sóng". Trát Khúc hợp lưu với một nhánh khác tên là Ngang Khúc (橫曲; bính âm: Áng Qū) ở gần Xương Đô (昌都; bính âm: Chāngdū) tạo ra Lan Thương Giang. Phần lớn đoạn sông này có cáchẻm núisâu, ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc, con sông chỉ còn ở độ cao oảng 500 m so với mực nước biển.
Bối cảnh ra đời phương châm
Tháng 11 năm 1991, sau khi Trung Quốc và Việt Nam thực hiện bình thường hoá quan hệ, nhà lãnh đạo cấp cao hai đảng, hai nước liên tiếp đi thăm lẫn nhau, sự giao lưu và hợp tác giữa hai bên trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, văn hoá ngày càng mở rộng và sâu sắc.
Do đặc thù địa lý tự nhiên, con người, chế độ xã hội và vận mệnh sống còn của hai đảng cầm quyền của hai nước hết sức gần gủi, gắn bó:
Sơn thủy tương liên,Lý tưởng tương thông,Văn hóa tương đồng,Vận mệnh tương quan.
Khởi tạo phương châm
Đầu năm 1999, Tổng bí thư Giang Trạch Dân đã đề ra và Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu đã đồng ý phương châm 16 chữ "Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện" đã xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, đánh dấu quan hệ Trung Việt đã bước vào giai đoạn phát triển mới được lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước xác định trong Tuyên bố chung, từ tháng 2/1999.
PHỤ ĐÍNH
GIẬT MÌNH: MƯỜI SÁU CHỮ VÀNG - BẢN GỐC VÀ BẢN DỊCH
Lũ cầm quyền CSVN đã bán nước chưa quý vị ??
Kính mời đọc bài viết để rõ ràng hơn về hiện trạng và âm mưu của
VC với Tàu Cộng
Bài viết được copy lại từ báo trong nước
Nguyen Liên Hương
Lê Văn Sinh
BẢN GỐC VÀ BẢN DỊCH !
1. Ngày nay, quan hệ hợp tác làm ăn giữa các quốc gia trên thế giới tuân
theo nguyên tắc BÌNH ĐẲNG, CÙNG CÓ LỢI. Tuy nhiên, không phải lúc
nào và ở đâu nguyên tắc này cũng được tôn trọng triệt để.
2. Năm 1999, TBT, CTN Trung Quốc Giang Trạch Dân nêu phương châm
hợp tác giữa hai nước Trung - Việt. Phương châm này, được TBT Lê Khả
Phiêu chấp nhận, được báo chí Việt gọi vắn tắt là 16 chữ vàng.
Nguyên văn như sau:
山水 相 連
理想 相 通
文化 相 同
運命 相 關
Sơn thủy tương liên,
Lý tưởng tương thông,
Văn hóa tương đồng,
Vận mệnh tương quan.
(Sông núi gắn liền,
Có chung lý tưởng,
Hòa nhập văn hóa,
Có chung định mệnh.)
Vấn đề là ai đó đã dịch bản văn trên thành bài thơ / khẩu hiệu êm tai
thế này:
Láng giềng hữu nghị,
Hợp tác toàn diện,
Ổn định lâu dài,
Hướng tới tương lai.
3. Tôi không biết chữ Hán. Vậy xin treo lên đây và mong được các bậc thức giả am hiểu về lĩnh vực này giải thích giùm. Thật là biết ơn lắm vậy.
Ghi chú:
Tôi hiểu đơn giản thế này:
Sông núi gắn liền không hẳn là láng giềng hữu nghị.
Có chung lý tưởng chưa chắc đã có hợp tác toàn diện.
Hòa nhập văn hóa khác ổn định lâu dài.
Có chung định mệnh không đồng nghĩa hướng tới tương lai.
________________________
Một số bình luận:
Nguyễn Văn Phước: Thôi xong - Vận mệnh tương lai VN mà gắn kết chặt như hìnhvới bóng Chinazi là mất hết biển đảo với tụi nó và người dân Việt mình khổ như dân TQ bây giờ thì chết chắc - nó bịt mồm bịt miệng đàn áp giết hại dân nó
dã man như Thiên An Môn, Tây Tạng, Tân Cương, Ngô Duy Nhĩ, Hong Kong! Nhìn nó “chăm sóc” dân Vũ Hán trong bệnh dịch là quá hiểu. Phải công bố âm mưu thâm độc này của China và quyết thay đổi về thực chất ngay từng câu của 3 dòng cuối.
Đây là việc sống còn chứ không phải chơi đâu ! Cả hành tinh thế giới này giờ đây tất cả các quốc gia đã nhận ra dã tâm và bộ mặt thật nham hiểm lật lọng của TQ - VN chắc chắn cũng phải nhận ra như vậy !
Đây không hề còn là ‘16 chữ Vàng’ - mà là ‘16 chữ viễn cảnh ám ảnh của mất mát chết chóc, tang thương’ !
Nghiem Truong Cần bạch hóa chuẩn ngữ nghĩa của 16 chữ tai quái này.
Mong thay!
Phạm Thành Láng giềng hữu nghị, Hợp tác toàn diện, Ổn định lâu dài, Hướng tới tương lai, là Tàu nó dịch đấy, Việt cứ thế mà đớp.
Ngữ Trương Ngoài “sông núi gắn liền” thì không thay đổi được, riêng ba điều sau thì thay đổi được hết!
Vuong Tran Ngoc Tôi nhớ không nhầm thì lúc bấy giờ, khi Giang Trạch Dân sang, truyền thông đã có tuyên truyền ngay 16 chữ , khoe hình thư pháp - Giang Trạch Dân cũng là nhà thư pháp. Lời “dịch” có sau , dần thêm định ngữ “vàng” thành công thức ! Sản phẩm như vậy là “ kết tinh” của bè lũ Hán nô đệ trình lên “thiên triều”. Ai bảo đó là bản dịch ?
Nguyễn Cảnh Thuỵ Thực hiện16 chữ phải chăng tự trói mình vào lệ thuộc?
Hoan Le
núi liền núi, sông liền sông
lý tưởng như nhau
văn hóa tương đồng với nhau
vận mệnh liên quan mật thiết với nhau (cùng sống cùng chết với nhau)
Đây mới là ý nghĩa thực sự của bản gốc. nghe như thể 2 nước là một vậy. Không hiểu sao người ta lại "dịch", đúng ra là viết lại một bản gần như hoàn toàn mới rồi cho lưu hành rộng rãi ra như vậy. trong bản gốc hoàn toàn không có chữ nào là Láng giềng hữu nghị, Hợp tác toàn diện,
Ổn định lâu dài,
Hướng tới tương lai cả. Tiện đây em xin dịch ngược lại 16
chữ tiếng Việt này
sang lại tiếng Trung để các bác so sánh:
.
邻居友谊
全面合作
长久稳定
朝向未来
như các bác thấy, không có một chữ nào giống nhau. Ý nghĩa cũng khác nhau một trời một vực. Cảm kích tác giả đã phát hiện ra sự khác biệt này. Là một phiên dịch Việt- Trung tôi thấy thật hổ thẹn khi không sớm nhìn ra một vấn đề lớn như thế , lại có liên qua tới chuyên môn của mình.
Càng căm hận hơn kẻ nào đã đổi trắng thay đen một cách trắng trợn như vậy. Chúng thật sự đã xem toàn dân Việt Nam là một lũ mù, một lũ ngu, một bầy cừu chỉ biết ăn biết ị thôi thật sao?
Giang Điền Người dịch ra câu khẩu hiệu: "Láng giềng hữu ngị / hợp tác toàn diện / Ổn định lâu dài / Hướng tới tương lai" . Theo tôi còn chấp nhận được vì đó là nguyện vọng chung của bất kì nước nào trong quan hệ quốc tế.
Mười sáu chữ dịch nghĩa trên là: "Sông núi gắn liền / Có chung lý tưởng / Hòa nhập văn hóa / Có chung định mệnh". Không thể như thế ngoài bốn chữ đầu . Mười hai chữ tiếp sau khẳng định ý ngĩa rằng :
Chúng ta là một bộ phận hữu cơ của TQ mà KHÔNG THỂ TÁCH RỜI ! Điều đó không thể chấp nhận được vì chúng ta là một quốc gia độc lập , có chủ quyền, có nền văn hóa riêng , tiếng nói chữ viết riêng sao phải hội nhập với họ ? sao phải chung vận mệnh với họ ?
_______________
Kg bác TỄU và các bác,
Tôi không bàn luận, chỉ chia sẻ những gì có được.
Đó là 2 tư liệu khác nhau, ra đời cách nhau 8-9 năm lận.
- Một cái liên quan tới ông Đỗ Mười (1991)
- Một cái liên quan tới ông Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh (1999, 2000)
Không có chuyện "cố ý" dịch sai văn bản.
Một cái nhận định chung về tình thế và tương quan với nhau của 2 nước (chung chung, nét lớn, nguyên tắc "sống chết có nhau).
Cái thứ hai mới nêu phương châm ứng xử với nhau (cụ thể hơn).
Trích:
- Tháng 11 năm 1991, sau khi Trung Quốc và Việt Nam thực hiện bình thường hoá quan hệ, nhà lãnh đạo cấp cao hai đảng, hai nước liên tiếp đi thăm lẫn nhau, sự giao lưu và hợp tác giữa hai bên trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, văn hoá ngày càng mở rộng và sâu sắc.
Do đặc thù địa lý tự nhiên, con người, chế độ xã hội và vận mệnh sống còn của hai đảng cầm quyền của hai nước hết sức gần gũi, gắn bó:
Sơn thủy tương liên,
Lý tưởng tương thông,
Văn hóa tương đồng,
Vận mệnh tương quan
Chữ Hán:
山水相連
理想相通
文化相同
運命相關
- Đầu năm 1999 (hơn 8 năm sau), Tổng bí thư Giang Trạch Dân đã đề ra và Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu đã đồng ý Phương châm 16 chữ vàng, là:"Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện" đã xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, đánh dấu quan hệ Trung Việt đã bước vào giai đoạn phát triển mới được lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước xác định trong Tuyên bố chung, từ tháng 2/1999.
- Tháng 11 năm 2000, khi hội đàm với Tổng bí thư mới đảng cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh đến thăm, Tổng bí thư Giang Trạch Dân nêu rõ, 16 chữ này là phương châm quan trọng chỉ đạo sự phát triển quan hệ hai nước.
usaelection gởi