Chúng tôi cũng tra cứu những kinh tụng in từ trước cho đến hiện nay, có ba loại: một loại có in bài Chú Đại Bi đầy đủ, một loại có in bài Chú Đại Bi nhưng thiếu 5 âm và một loại không có in bài Chú Đại Bi, cụ thể như sau:
1) Chúng tôi có những Kinh, in Chú Đại Bi đầy đủ là:
- Kinh DI ĐÀ - HỒNG DANH – VU LAN - PHỔ MÔN, không thấy ghi tác giả, chỉ có ghi Pháp danh THIỆN HIỂN “Hộ Niệm” dưới có hàng chữ Kinh Này Ấn Tống (không được phép bán), In Tại Nhà In THẠNH MẬU 147 đường Quản hạt số 1 GIA ĐỊNH (Có thể là đường Nơ Trang Long ngày nay ?). Quyển Kinh này trong phần Khai kinh có in ĐẠI BI CHÚ ở trang 9, có đủ 5 âm, mà những kinh khác sau này in thiếu: … Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà dà. Ma phạt đạt đậu, …
- KINH THỦY SÁM, dịch giả THIỀU CHỬU, chùa ĐỨC HÒA, Suối Lồ Ồ, Biên Hòa Ấn Tống, in Phật Lịch 2514.
- NGHI THỨC TỤNG NIỆM, Chùa Việt Nam SEATTLE, in Phật Lịch 2532 – 1988 (Quyển này tái bản từ bản Kinh của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, có thêm Hòa Thượng Thích Thiện Hòa chứng minh và thêm 5 âm thiếu của bản gốc)
2) Những kinh in thiếu 5 âm trong Chú Đại Bi, chúng tôi có gồm:
- NGHI THỨC TỤNG NIỆM, của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Xuất Bản, do Hội Phật Học Nam Việt Ấn Hành. Đây là quyển Kinh tái bản in chui sau nằm 1975, nên không có ghi năm in, và in tại nhà in nào, nhưng chắc chắn bản gốc in trước năm 1964, vì Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập từ năm 1951 đến cuối năm 1963.
Bản này không rõ vị nào soạn nhưng được ghi chư Hòa Thượng chứng minh: Thích Tịnh Khiết, Thích Giác Nhiên, Thích Khánh Anh, Thích Giác Nguyên.
- TỪ BI TAM MUỘI THỦY SÁM, dịch giả Thích Huyền Dung, Thích Tuệ Hải xuất bản, in Phật lịch 2506 - 1962
- KINH NHỰT TỤNG, in Phật Lịch 2531 và quyển khác in Phật Lịch 2533, cả hai quyển này dành cho tu sĩ, ngoài Nghi thức Hồng Danh Sám Hối, Cầu An, Cầu Siều, Vu Lan, còn có Công Phu Khuya, An Vị Phật, Quá Đường, Cúng Ngọ, Phóng Sanh …
- NGHI THỨC TỤNG NIỆM, Chùa Vĩnh Nghiêm, Pamona, Cali, in Phật Lịch 2530 - 1986
- KINH LƯƠNG HOÀNG SÁM , Trí Quang dịch, Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản, in Phật Lịch 2534 – 1990
- CỐT TỦY NGHI LỄ PHẬT GIÁO, soạn giả Thích Tín Nghĩa, Hội Phật Giáo Ba La Mật in Phật lịch 2535 – 1991
- NGHI THỨC TỤNG NIỆM, Của Gia Đình Phật Tử, NXBTPHCM, in năm 1998.
3) Những kinh tụng in không có bài Chú Đại Bi, như:
- ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN, Thích Trí Tịnh, Nhà in Sen Vàng tái bản, in năm 1967
- KINH PHÁP HOA, Thích Trí Tịnh, Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản, in Phật Lịch 2537 – 1993
- ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH, Thích Trí Tịnh, THPGTPHCM, in Phật lịch 2538 – 1994
Theo sự phân chia bài Chú thành 84 hàng thì hàng thứ 16 bản phiên âm chữ Việt thiếu 5 âm so với các bản dịch và các bản Kinh tụng xưa.
………
12.Nam mô na ra cẩn trì
13.Hê rị, ma ha bàn đa sa mế
14.Tát bà a tha đậu du bằng
15.A thệ dựng
16.Tát bà tát đa Na ma bà tát đa
17.Na ma bà dà
18.Ma phạt đạt đậu đát điệt tha
………
Câu hỏi đặt ra là vì sao bài Chú in thiếu ? Chúng ta nên nhớ rằng trước khi có máy vi tính, muốn in một bản văn, người ta phải sắp chữ - chữ được đúc chì từng mẫu tự, những mẫu tự nào có dấu, chẳng hạn như á, ạ, ã, ă, â, ắ, ằ … đều phải đúc riêng như một mẫu tự hay phụ âm - sắp chữ là lấy những mẫu tự cái hay có dấu và phụ âm xếp thành chữ đặt vào khung, sau khi xếp chữ vào khung thành bản văn, từ khung đó đặt vào máy in, đó là in thường hoặc từ bản in thường thưòng người ta chụp hình làm ra phim rồi làm bản kẻm để in typo (mỗi lần in một màu) hay in offset (một lần in nhiều màu).
Do từ bản in sai đầu tiên, những bản sau người ta sắp chữ theo đó rồi in sai theo hoặc những bản sau do chụp ảnh làm bản kẽm từ bản sai nên in sai. Nguyên do có thể vì tin vào bản của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam là đúng là mẫu mực đã được bốn vị Hòa Thượng chứng minh, nhất là trong đó có Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, do vậy mà đã bị sai dây chuyền.
Chúng tôi viết bài này, mong được sự quan tâm của chư Tôn đức Tăng, Ni quý Cư sĩ in ấn Kinh, quan tâm bổ khuyết cho sự thiếu sót kể trên, để những bản kinh in sau này đúng với nguyên bản, kinh điển được in trang trọng hơn, không bị nạn “tam sao thất bổn” như trong thời gian qua.
Bởi vì Chú Đà La Ni là câu nói phát ra từ sự tu thiền định của chư Phật và Bồ Tát, đó là định lực của chư Phật và Bồ Tát để hộ trì cho người trì tụng chú, cho nên không thể thiếu được.
Có người cho rằng không cần thiết để bổ sung, vì từ gần nữa thế kỷ qua, người ta vẫn in thiếu vẫn đọc thiếu có sao đâu? Chúng tôi xin phép, nhắc lại một sự kiện:
Trong kiết tập lần thứ nhất, ngài Ðại Ca Diếp đưa ra ý kiến : "Nếu chúng ta xem học pháp là những giới nhỏ nhặt, có thể loại bỏ thì các Tỳ Kheo khác sẽ bảo: Bốn giới Ba La Ðề Ðề Xá Ni cũng là những giới nhỏ nhặt có thể loại bỏ. Nếu chúng ta bảo bốn giới Ba La Ðề Ðề Xá Ni là những giới nhỏ nhặt, thì các Tỳ Kheo khác sẽ bảo : Các giới Ba Dật Ðề cũng là những giớ nhỏ nhặt... Giờ đây chúng ta không thể khẳng định, giới nào là giới nhỏ nhặt mà loại bỏ một cách tùy tiện thì bọn ngoại đạo sẽ bảo : "Pháp của sa môn Thích tử giống như mây khói, khi thầy còn sống thì những pháp do thầy chế định các đệ tử tuân thủ một cách nghiêm túc, nhưng sau khi thầy nhập niết bàn, họ không chịu thực hành nữa" Do vậy, tôi khẳng định lại : "Những gì không do Phật chế thì không được tự ý chế định, và những gì do Phật chế định thì không được vi phạm. Chúng ta phải kính cẩn học tập những gì mà Phật đã truyền dạy".
Và chúng tôi cũng kèm theo những bản Chú, đã tìm thấy trên các Trang Mạng để quý vị độc giả khỏi phải tìm kiếm.
Louisville, ngày 5 tháng 1 năm 2011
|