Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh



 
Tịnh độ  &  Phật A Di Đà

***
I. Tịnh độ.

Nội dung

I. Tịnh độ theo Phật giáo Nam truyền.
II. Tịnh độ theo Phật giáo Bắc truyền.
 
Pure land - Wikipedia
Tịnh độ – Wikipedia tiếng Việt

Tịnh độ(淨土;  P: Suddhāvāsa;  S: Sukhavatì;  E: Pure Land) còn gọi là Tịnh thổ, Tịnh cư. 
Trong đó :
- Tịnh là nói gọn của thanh tịnh 清淨(thanh : trong sạch,  tịnh : an ổn, không bị phiền não;  E: pure). 
- Độ(;  E: land):Là nơi chốn.

Theo đó, tịnh độ có nghĩa là nơi trong sạch và an ổn, nơi này có thể được hiểu như là một ngoại cảnhhay một nội tâmở trạng thái  trong sạch và an vui.

I. Tịnh độ theo Phật giáo Nam truyền (PGNT).

1) Các loại tịnh độ.

Theo PGNT, Chú Sớ A Tỳ Đàm có phân ra 5 loại tịnh độ thuộc cõi Sắc trang nghiêm – được xem là những dấu vết của Ngũ Uẩn, đó là:

1/.Tịnh độ Vô Phiền(Avihā) có thọ mạng 1.000 đại kiếp,
2/.Tịnh độ Vô Nhiệt(P: Ātappa) có thọ mạng 2.000 đại kiếp,
3/.Tịnh độ Thiện Hiện(P: Sudassā) có thọ mạng 4.000 đại kiếp,
4/.Tịnh độ Thiện Kiến(P: Sudassī) có thọ mạng 8.000 đại kiếp,
5/.Tịnh độ Sắc Cứu Cánh(P: Akanittha) có thọ mạng 16.000 đại kiếp.
         
Năm loại tịnh độ này phân bố ở 3 trong 4 tầng thánh trí của các bậc thánh nhân và chính đức Phật Thích Ca cũng được kể vào đó. Trong đó, tầng thánh trí thứ Bất Lai (A-na-hàm) có vai trò quan trọng nhất đối với 5 loại tịnh độ này.
        
Tất cả 5 loại tịnh độ được xem là ‘trạm’ trung chuyển cho điểm đến sau cùng là Niết-bàn.

CáctầngThánhtrítrong Phật giáo

 
   Tứ quả Kiết sử (gây phiền não) được đoạn diệt               Vòng tái sinh 
 
Dự Lưu
(Tu-đà-hoàn)
Thân kiến, Nghi, và Giới cấm thủ
( 3 kiết sử đầu tiên)
Thất lai:thêm bảy lần tái sinh trong cõi người hoặc trời.
Nhất Lai
(Tư-đà-hàm)
Làm nguội thêm Dục và Sân
(2 kiết sử kế tiếp)
Nhất lai: thêm một lần tái sinh nữa trong cõi dục.
Bất Lai(A-na-hàm) Đoạn diệt hoàn toàn 5 hạ phần kiết sử ở trên:                      (Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ, Dục, Sân) Bất lai :tùy sinh vào cõi Sắc giới.
Arahant
(A-la-hán)
Đoạn diệt hoàn toàn 5 thượng phần kiết sử:                          (Sắc ái, Vô sắc ái, Mạn, Trạo cử, Vô minh) Giải thoátvòng sinh tử luân hồi.
 
 
2) Tịnh độ trong các tầng thánh trí:  Đại lược về 4 tầng thánh trí và 5 loại tịnh độ như sau:

1/.Tầng thánh trí thứ nhất  Tu-đà-hườn:  Sơ quả Tu-đà-hườn hay Dự Lưu (須陀洹;  P: Sotāpatti;  S: Srota-apanna;  E: Stream-enterer) còn được gọi là Thất Lai, là quả vị không tái sanh quá 7 lần ở cõi Dục. Đây là vị đã chấm dứt hoàn toàn 3 thứ phiền não Thân Kiến(nôm na là chấp kiến trong 5 Uẩn), Hoài Nghi(nghi ngờ về Phật Pháp nói chung) và Giới Cấm Thủ(chấp trước các tín điều mù quáng).

Ở một số vị, thánh trí Sơ Quả chỉ là một giai đoạn thoáng qua trước khi hoàn tất các tầng thánh trí cao hơn. Như trường hợp đức Phật hoặc các vị Thinh Văn tốc chứng. Nhưng cũng có lúc giai đoạn này kéo dài trong nhiều giờ, nhiều ngày, nhiều năm hoặc vài kiếp sống (dĩ nhiên không quá 7 kiếp), và được xem là trụ ở Tịnh độ Vô Phiền sau khi mãn phần nơi kiếp sống hiện tại.

2/.Tầng thánh trí thứ hai Tư-đà-hàm:  Nhị quả Tư-đà-hàm (斯陀含;  P: Sakadāgāmì;  S: Sakrdagamin;  E: Once-returner) còn được gọi là Nhất Lai, là quả vị chỉ tái sanh ở cõi Dục một lần nữa mà thôi, và được xem là trụ ở Tịnh độ Vô Phiền sau khi mãn phần nơi kiếp sống hiện tại. Đây là vị ngoài kết quả đoạn trừ 3 thứ phiền não của tầng thánh trên, còn làm giảm nhẹ Dục Ái (niềm tham luyến trong Ngũ trần)  và Sân hận.

3/.Tầng thánh trí thứ ba A-na-hàm:  Tam quả A-na-hàm (阿那含;  P;S: Anāgāmi;  E: Non-returner) còn được gọi là Bất Lai, là quả vị không còn tái sanh ở cõi Dục nữa. Theo A Tỳ Đàm tạng Pāli, trong trường hợp không thể chứng La Hán rồi nhập diệt ngay đời này thì chỉ có hai con đường để đi:
- Nếu vị thánh Bất Lai đã chứng đắc Ngũ Thiền (theo tạng kinh là Tứ Thiền) thì sẽ tùy theo khả năng mạnh yếu của Ngũ Quyền (Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ) mà sanh về một trong 5 tịnh độ.
* Tín Quyềnnổi trội thì sanh về Tịnh độ Vô Phiền,
* Tấn Quyềnhùng hậu thì về Tịnh độ Vô Nhiệt,
* Niệm Quyềnhùng hậu về Tịnh độ Thiện Hiện,
* Định Quyềnhùng hậu thì về Tịnh độ Thiện Kiến,
* Tuệ Quyềnthâm hậu thì sanh về tịnh độ Sắc Cứu Cánh (P: Akanittha-không thứ gì yếu kém). Ở tịnh độ thứ năm này toàn bộ Ngũ Quyền đều được đầy đủ, và là chốn sau cùng để một vị Bất Lai chứng quả A La Hán.
Theo Manorathapurani – là Chú Sớ Tăng Chi Bộ (Phần Tika) cho rằng do túc duyên và trình độ tu chứng có khác nhau nên giữa các bậc thánh Bất Lai cũng có vài sai biệt, đó là từ bất kỳ một trong 5 tịnh độ chứng thẳng A-la-hán:
*Tiền Bán Niết Bàn(P: Antarāparinibbāyī):  Dùng chỉ cho vị Bất Lai chứng A-la-hán khi chưa sống hết phân nửa thọ mạng ở tịnh độ đang trụ.
*Hậu Bán Niết Bàn(P: Upahaccaparinibbāyī):  Dùng chỉ cho vị Bất Lai chứng A-la-hán sau khi sống hơn nửa thọ mạng ở tịnh độ đang trụ.
*Luân Lưu Niết Bàn(P: Uddhamsoto Akanitthagāmī):  Dùng chỉ cho vị Bất Lai chứng A-la-hán phải lần lượt sanh đủ 5 tịnh độ, bởi căn tính có nhiều hạn chế.
*Bất Lao Niết Bàn(P: Asankhāraparinibbāyī):  Dùng chỉ cho vị Bất Lai chứng A-la-hán mà không cần nhiều cố gắng.
*Cần Lao Niết Bàn(P: Sasankhāraparinibbāyī):  Dùng chỉ cho vị Bất Lai phải cần nhiều nỗlực cố gắng mới có thể chứng A-la-hán.
- Nếu vị thánh Bất Lai chưa chứng qua một tầng thiền định nào, tức chỉ có trí tuệ Thiền Quán (Vipassanā) mà không từng tu tập Thiền Chỉ (P: Samathabhāvanā) thì lúc mạng chung, vị này do khả năng ly dục vô sân tuyệt đối nên tối thiểu cũng thành tựu Sơ Thiền trước khi mạng chung ở cõi Dục, và như vậy cũng đủ để sanh về cõi Phạm Thiên.
4./Tầng thánh trí thứ tư A-la-hán:  Tứ quả A-la-hán (阿羅漢;  P: Arahatta;  S: Arahant;  E: Complete-liberation) là quả vị chỉ cho sự chấm dứt hoàn toàn phiền não.
Theo A Tỳ Đàm tạng Pāli thì có 3 quả vị A-la-hán:
- Phật Chánh Đẳng Giáchay Phật Toàn Giác(P: Ammāsambuddha hay Sabbannubuddha) - quả vị A-la-hán thứ nhất, là những vị do tự mình chứng ngộ  A-la-hán và là đạo sư hữu duyên cho nhiều người chứng đắc A-la-hán.
Phật Thinh Văn Giác(P: Sāvakabuddha) - quả vị A-la-hán thứ hai, là những vị chứng ngộ A-la-hán dưới sự hướng dẫn của Phật Toàn Giác.
Phật Độc Giác(P: Paccekabuddha) - quả vị A-la-hán thứ ba, là những vị do tự mình chứng ngộ A-la-hán nhưng không hữu duyên hướng dẫn người khác chứng ngộ A-la-hán.

Trong Chú Sớ Tiểu Bộ Kinh thuộc Hán tạng còn gọi Phật Độc Giác là Phật Duyên Giác vì cho rằng các ngài nhờ liễu ngộ chân lý Duyên khởi mà đắc quả vị, hàm ý phân biệt các mức độ khác biệt về tuệ giác của các A-la-hán; bởi Phật Thinh Văn Giác được cho là nhờ liễu ngộ Tứ Thánh Đế mà đắc quả vị. Tuy nhiên, trong  kinh Đại Duyên thuộc Trường Bộ Kinh,  lý Duyên Khởi và lý Tứ Đế vốn dĩ chỉ là một (Xin xem Bát Chánh Đạo).

Trong Trung Bộ kinh, đức Phật đã xác định “Ai thấy lý Duyên khởi chính là thấy Pháp và ngược lại”.  Đồng thời, không thể có một người giác ngộ lý Tứ Đế mà lại mơ hồ về lý Duyên khởi hay ngược lại. Tất cả quả vị A-la-hán vừa nêu trên đây luôn giống nhau về khiá cạnh giác ngộ các pháp cần yếu (như Duyên khởi, Tứ Đế ...), chỉ khác ở hai điểm chính:
- Điểm thứ nhất là tự mình hiểu ra hay phải nhờ thầy hướng dẫn.
- Điểm thứ hai là ngoài trí tuệ giác ngộ có còn khả năng hiểu biết sâu rộng những gì nằm ngoài lý tưởng giác ngộ hay không. Xét về khía cạnh này, chỉ có chư Phật Chánh Đẳng Giác là viên mãn.

II. Tịnh độ theo Phật giáo Bắc truyền (PGBT).

Theo PGBT, tịnh độ có thể được trình bày theo 2 cách, đó là tịnh độ biểu tượng thể hiện tính tha lựcvà tịnh độ hiện thực thể hiện tính tự lực. Tuy nhiên, đây chỉ là cách tạm phân tích. Kỳ thực, tịnh độ biểu tượng hàm ý tạo bước đầu để người sơ cơ đến với tịnh độ hiện thực theo lý “tùng tướng nhập tính [nương theo tướng ‘Vô thường’ mà hiển bày tính ‘Vô ngã’”, nếu như khéo được ôn lại những lời dạy nơi đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế, để nhận ra sự kiện này.

Như thế, có thể thấy rằng dù ở hình thức tông phái nào, tất cả đều phải cùng hướng chung mục tiêu là khai mở tuệ giác, nhằm đoạn trừ vô minh-phiền não, để thiết lập hạnh phúc thực sự và bền vững. Mọi việc đều phải được hiện thực và bắt đầu ngay trong kiếp sống này.

1)Tịnh độ biểu tượng: Có 3 loại tịnh độ biểu tượng nổi bật hơn hết, mỗi loại tịnh độ được đặc trưng bằng một vị Phật có thể được nhận biết như sau :

1/.Tịnh độ Di Đà: Còn có tên gọi là Tịnh độTây PhươnghayTịnh độ Trang Nghiêm, được cho là tịnh độ do đức Phật A Di Đà phát nguyện thực hiện bằng 48 đại nguyện, nhằm giúp cho các chúng sinh có ý muốn sau khi chết, có được cuộc sống an lạc và tu học hướng tới thánh vị. 

Amitābha - Wikipedia
A-di-đà – Wikipedia tiếng Việt

Đức Phật A-di-đà được xem là một vị Phật biểu tượng, vì theo sự trình bày nơi kinh Quán Vô Lượng Thọ, được cho là do đức Phật lịch sử Thích-ca giới thiệu và mô tả, và xem đó như là một pháp tu. 

Về sau, sự kiện này được hệ thống Phật giáo Bắc truyền phát triển, qua các kinh điển như kinh Pháp Hoa, kinh Bi Hoa, kinh Quán Phật Tam Muội Hải …, đặc biệt là 3 bộ kinh chính gồm kinh A Di Đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ kinh Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm. Pháp tu ngày càng phát triển và hình thành một tông phái chuyên biệt gọi là Tịnh Độ tông tại Trung Hoa.

2/.Tịnh độ Dược Sư:  Còn có tên gọi là Tịnh độĐông Phương, đó là tịnh độ được cho là do đức Phật Dược Sư Lưu Ly phát nguyện thực hiện bằng 12 đại nguyện, nhằm giúp cho các chúng sinh ngay trên hiện đời có được cuộc sống an lạc.

Bhaisajyaguru - Wikipedia
Phật Dược Sư – Wikipedia tiếng Việt
Phật Dược Sư (藥師佛;  S: Bhaiṣajyaguru) nghĩa là "vị Phật thầy thuốc", còn gọi là:
Dược Sư Lưu Ly Quang Phật (藥師琉璃光佛; S: Bhaiṣajyaguruvaidūrya-prabha-buddha),

Đại Y Vương Phật (S: Mahà Bhaiṣaijya-ràja buddha), do bổn nguyện của ngài là "cứu tất cả các bệnh khổ cho các chúng sinh" cho nên còn có tên Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật, là vị Phật đại diện cho sự trọn vẹn của Phật quả ngự cõi phía đông (là cõi Tịnh Lưu ly).
Tranh tượng của vị Phật này hay được vẽ với tay cầm thuốc chữa bệnh và tay giữ Ấn thí nguyện.

Phật Dược Sư thường được thờ chung với Phật Thích Ca Mâu Ni và PhậtA Di Đà, trong đó Phật Dược Sư đứng bên trái còn Phật A Di Đà đứng bên phải Phật Thích Ca.  Trong kinh Dược Sư, hiện nay chỉ còn bản chữ Hán và chữ Tây Tạng, người ta đọc thấy 12 lời nguyện của vị Phật này, thệ cứu độ chúng sinh, với sự giúp đỡ của chư Phật, Bồ Tát và 12 vị Hộ Pháp.

3/.Tịnh độ Di Lặc:  còn có tên gọi là Tịnh độ Thượng Sanh, đó là tịnh độ được cho là do đức Phật Di Lặc (vị Phật tương lai) phát nguyện thực hiện, nhằm giúp cho các chúng sinh có ý muốn sau khi chết có được cuộc sống tu học nơi cõi trời Đâu Suất và sau đó thực hiện Tịnh độ Hạ Sanh – như là một loại Tịnh độ Nhân gian(xem mục II. Tịnh độ hiện thực) xuất hiện cùng lúc với Bồ Tát Di Lặc trở thành vị Phật sau này.

Maitreya - Wikipedia
Di Lặc – Wikipedia tiếng Việt

Dự án tượng Phật Di Lặc cao 45m tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ.
Di Lặc (彌勒;  P: Metteyya;  S: Maitreya) được dịch là Từ Thị 慈氏, có nghĩa là "người có lòng từ". Theo truyền thuyết, Di Lặc là một vị Bồ Tát và cũng là vị Phật cuối cùng sẽ xuất hiện trên Trái Đất.  Trong Phật giáo Tây Tạng, Bồ Tát Di-lặc được thờ cúng rất rộng rãi.

2)Tịnh độ hiện thực:  Từ góc độ của cuộc sống hiện thực, mà theo đó, tịnh độ có thể được cảm nhận qua bốn dạng:

1/. Tịnh độ Nhân gian:  Tịnh độ nhân gian là chỉ cho hoàn cảnh sinh sống hiện thực của chúng ta thể nghiệm được sự thanh tịnh của thân và tâm. Tịnh độ này có được do sự học và hành trì Phật pháp, hiển hiện ngay trước mắt của con người.

2/. Tịnh độ Thiên quốc:  Tịnh độ Thiên quốc là chỉ cho cảnh giới hưởng thụ dục lạc ở cõi trời Dục giới, hoặc nhờ tu thiền định mà hưởng thụ định lạc ở các cõi trời thiền Sắc giới hay thiền Vô sắc giới. Song lúc hưởng thụ hết phước báo ở cõi trời Dục hoặc lúc định lực thối thất ở cõi trời Thiền, lại phải từ cõi trời rớt xuống nhân gian hoặc có thể đoạ lạc nơi tam đồ ác đạo.

Chúng sinh nơi cõi trời Dục giới không có loạn lạc, không có tội phạm, không có tai biến, không có bệnh tật, sở cầu như ý, như muốn ăn có ăn, muốn mặc có mặc, đến đi tùy ý, thân nhẹ như hư không. Cho nên có rất nhiều tôn giáo khuyến khích tín đồ cầu sinh Thiên quốc (= Thiên đàng).

Chỉ có điều họ không biết rõ khi được sinh lên cõi trời rồi một ngày nào đó cũng hưởng hết phước báo, lúc ấy có năm thứ tướng suy hiện ra trước mắt, như kinh Niết Bàn quyển 19 đã nói “Thích Đề Hoàn Nhân ở cõi trời, khi mạng sắp hết, có năm tướng hiện: 1- Y phục dơ bẩn. 2- Hoa trên đầu khô héo. 3- Thân thể hôi hám. 4- Nách ra mồ hôi. 5- Không ưa chỗ ngồi”.
Cho nên đối với người thông thường, cõi trời là tịnh độ. Còn đối với người hiểu đạo Phật thực sự thì cho rằng thà sinh tại nhân gian tu học Phật pháp, còn hơn là sinh về Thiên quốc để hưởng phước trời.
Tịnh độ Thiên quốc này có được do sự học và hành trì Thập thiện.

3/.Tịnh độ Phật quốc:  Tịnh độ Phật quốc là chỉ cho cảnh giới của bậc giác ngộ. Tịnh độ Phật quốc nàycó hai biểu hiện: - một là công đức quả báo của Phật, - hai là tiếp dẫn hóa độ tất cả chúng sinh hữu duyên, tu học Phật pháp.

4/.Tịnh độ Tự tâm:  Tịnh độ Tự tâm có ý nói ở nội tâm của mỗi người, dù phàm hay thánh vốn đầy đủ Phật tính (= tính chất giác ngộ), tức là tâm chúng sinh và tâm Phật tương đồng, thế giới chúng sinh và cõi Phật không khác. Chẳng qua tâm chúng sinh bị phiền não mà không thấy được thanh tịnh.

Nếu trong tâm mình không bị hoàn cảnh làm cho dao động dính mắc, thì đó chính là tịnh độ. Tịnh độ tự tâm tuy không ở ngoài tâm, song hoàn cảnh bên ngoài cũng tùy theo nội tâm mà chuyển. Đây là điều rất thiết thực, đó là: “Niệm Phật liền thấy Phật - Tâm tịnh quốc độ tịnh”,  Phật của niệm Phật nơi đây hàm nghĩa sự giác ngộ hay tính chất biểu hiện sự giác ngộ; niệm Phật nơi đây đồng nghĩa với niệm Duyên khởi, niệm Vô thường-Vô ngã.

Nếu có thể soi thấu phiền não của phàm trần và xét rõ chỗ sâu xa của nội tâm, thì sẽ phát hiện tâm Phật tức chính là tâm mình và thế giới này với Phật quốc không khác. Bởi nếu tâm thanh tịnh thì sẽ nhìn thế giới này cũng thanh tịnh, nếu tâm không thanh tịnh thì hoàn cảnh sinh hoạt sẽ là khổ ải không cùng.

Thực ra thế giới Hoa Tạng trong kinh Hoa Nghiêm, pháp môn Tâm địa Bồ Tát trong kinh Phạm Võng, Tịnh độ Linh Sơn trong kinh Pháp Hoa, Chân tâm hay Thâm tâm trong kinh Duy Ma đều chỉ là tịnh độ Tự tâm: “Tùy tâm mình tịnh thì quốc độ tịnh”.
Tâm đục ắt chúng sinh đục.
                                    Tâm tịnh ắt chúng sinh tịnh.
                                    Muốn được tịnh độ, trước cần tịnh tâm.
                                    Tùy tâm mình tịnh, xứ Phật tịnh theo.
                                    Tam giới tu tịnh, tự nhiên thành tựu.
        
Tịnh độ Tự tâm luôn ở mọi nơi mọi thời cho hành giả giác ngộ, nên tịnh độ này còn gọi là “Tịnh độ có thể mang theo” (E: Portable Pure Land).

----------------

Ghi chú:
Thiên Thai tông đề xướng bốn loại Phật độ, tức bốn loại Tịnh độ (tứ chủng Tịnh độ) sau:

1. Phàm thánh đồng cư tịnh độ:  Là tịnh độ mà trong đó Người, Trời (phàm) và các vị Thanh văn, Duyên giác (thánh) cùng ở chung. Lại nữa, trong “phàm” thì Người và Trời thuộc về “thiện chúng sinh”, ngoài ra còn có thể kể thêm bốn loài “ác chúng sinh” cũng cùng ở chung là Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sinh và A-tu-la; trong “thánh” thì Thanh văn và Duyên giác là các bậc thánh chính thức, ngoài ra còn có thể kể chung các vị “thánh quyền biến”, tức là chư Phật và Bồ-tát lớn, vì cứu độ chúng sinh mà thị hiện trong các quốc độ đó.

2. Phương tiện hữu dư tịnh độ:  Là tịnh độ của các bậc A-la-hán, Phật Bích-chi và Bồ-tát Địa tiền. Những vị này nương vào các pháp phương tiện để tu tập, đoạn trừ các kiến tư hoặc, nên gọi là “phương tiện”; nhưng vẫn còn căn bản vô minh làm che lấp thật tướng trung đạo, nên gọi là “hữu dư”.    

3. Thật báo vô chướng ngại tịnh độ:   Là tịnh độ thuần túy của các vị Bồ-tát Địa thượng. Những vị này đã trừ từng phần căn bản vô minh, có được quả báo tự tại vô ngại của đạo chân thật.

4. Thường tịch quang tịnh độ:   Là tịnh độ của chư Phật. Đó là quốc độ của Pháp thân (= Chân lý) thường trú (thường), hoàn toàn giải thoát (tịch), và trí tuệ siêu việt (quang).

II. Phật A Di Đà.

Nội dung

1) A Di Đà.
2) Ý nghĩa A Di Đà.
3) Chánh niệm “A Di Đà”.
 
Phật A Di Đà
          
1) A Di Đà (阿彌陀;  S: Amitābha) là tên gọi của một vị Phật rất quan trọng trong Phật giáo Bắc truyền, đặc biệt là Tịnh Độ tông.
Phật A Di Đà lần đầu tiên được nhắc đến trong kinh Vô Lượng Thọ, được cho là được Phật Thích Ca thuyết khi còn tại thế. Tuy nhiên, các bằng chứng khảo cổ chỉ tìm thấy kinh Vô Lượng Thọ (無量壽經;  S: Sukhāvatīvyūha sūtra) và các ghi chép về Phật A Di Đà vào khoảng thế kỷ 1 trước công nguyên, nên nảy sinh nhiều tranh cãi về nguồn gốc của sự kiện này.
Hơn nữa, thực ra ngày vía Phật A Di Đà đản sanh vào ngày 17 tháng 11 âm lịch hàng năm thực ra là ngày sinh của Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ (904- 975) đời Tống, Tổ sư đời thứ 6 của 13 vị Tổ thuộc Tịnh Độ tông của Phật giáo Trung Quốc. Theo truyền thuyết, Ngài được xem là ứng hoá thân của Phật A Di Đà.
Phần giải thích lịch sử về nguồn gốc Phật A Di Đà ở Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam cho rằng truyền thống niềm tin vào Phật A Di Đà là sản phẩm của các học giả Phật giáo của thế kỷ thứ 1 trước công nguyên, do đó không có cơ sở nào chứng minh được có thật sự là đức Phật Thích Ca nói về Phật A Di Đà hay không, hay Phật A Di Đà chỉ là một sản phẩm của các học giả.
Có giải thích cho rằng Phật A Di Đà chỉ là một cách diễn đạt về Phật Thích Ca, bởi Phật là biểu tượng chung cho sự giác ngộ chân lý tự nhiên và khách quan của vũ trụ.
          
2) Ý nghĩa A Di Đà:
Theo nguyên bản Sanskrit có hai chữ mô tả, đó là: Amitābha (阿彌多婆 - Vô lượng quang 無量光) và Amitāyus (阿彌多廋 - Vô lượng thọ 無量壽), nên A Di Đà được xem như bao hàm cả hai, là vị Phật “Vô lượng quang - Vô lượng thọ”. Theo đó, biểu tượng triết lý A Di Đà (阿彌陀;  S: Amitābha + Amitāyus) được mô tả như sau:
1/. Vô lượng quang (無量光;  S: Amitābha ;  E: Infinite light):  Ánh sáng vô lượng,  hàm ý chân lý khách quan chứng ngộ của đức Phật Thích Ca là “Duyên khởi” có chân giá trị vượt mọi không gian.
2/. Vô lượng thọ (無量壽;  S: Amitāyus;  E: Infinite life):  Thọ mệnh vô lượng, hàm ý chân lý khách quan chứng ngộ của đức Phật Thích Ca là “Duyên khởi” có chân giá trị vượt mọi thời gian.
Có lẽ về sau A Di Đà có thêm nghĩa là Vô lượng công đức, với ý nghĩa sau:
Vô lượng công đức (無量功德;  P: Guṇa-appamaññā;  S: Guṇa-apramāṇa;  E: Infinite merit):  Là những việc làm thiện (= thiện sự 善事) có giá trị vô cùng lớn. Đây là khái niệm về giá trị của việc làm thiện nơi một hành giả, có giá trị vô hạn khi hành thiện với một nội tâm Vô ngã, có nghĩa là hành thiện theo tinh thần của chân lý Duyên khởi [Xin xem thêm mục từ Duyên khởi, Vô ngã].
3/. Tự tính Di Đà.
Tự tính Di Đà (自性彌陀;  S: Svabhāva-Amitābha;  E: Self-nature Amitabha):  Là tính chất Vô lượng quang và Vô lượng thọ luôn tự hiện hữu một cách tự nhiên nơi mọi pháp (= vạn sự vạn vật).
          Nói rõ hơn, Tự tính Di Đà chính là tính chất Duyên khởi luôn hiện hữu một cách tự nhiên nơi mọi pháp (theo tiếng Tàu thì “Di Đà tính = Duyên khởi tính). Do đó, khi trực nhận ra Tự tính Di Đà, hành giả được xem là đã nhận thực ra tâm thanh tịnh để bước vào Tịnh độ của chư Phật vậy, đó là ý nghĩa của “Tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh độ * 自性彌陀, 惟心淨土”  hay  “Tuỳ kỳ tâm tịnh, tức Phật độ tịnh * 隨其心淨, 則佛土淨”.
Tương tự:
Tự tính Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàn chí đáo Tây Phương * 性彌陀無別唸, 不僤志到西方 * Tự tính Di Đà là chân lý sáng soi, là không còn vọng niệm đối đãi phân biệt, như thế hành giả sẽ không phải vất vả tìm về Tây Phương”
Trong Cư Trần Lạc Đạo Phú, hội thứ hai, Sơ Tổ Trúc Lâm đã từng dạy:  “Tịnh độ là tâm thanh tịnh, chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương. Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc
Trong kinh Pháp Bảo Đàn, hướng về Tịnh độ hiện thực, Lục Tổ Huệ Năng đã từng dạy: “Lìa thế gian tìm Bồ-đề (tức tìm giác ngộ, tịnh độ hay Niết-bàn thanh tịnh) khác chi tìm lông rùa sừng thỏ”.
佛法在世间                  Phật pháp tại thế gian    
不离世间觉                  Bất ly thế gian giác        
离世觅菩提                  Ly thế gian mịch Bồ-đề   
恰如求兔角                  Kháp như cầu thố giác   
Phật pháp trên thế gian
Không thể rời thế gian mà giác ngộ
Rời thế gian tìm giác ngộ
Giống như tìm sừng thỏ

Trong tín ngưỡng tại Tây Tạng, Phật A Di Đà được xem như hai vị Phật, đó là Phật Vô Lượng Quang và Phật Vô Lượng Thọ; nếu ai mong cầu có trí tuệ thì quy y Phật Vô Lượng Quang, ai mong cầu tuổi thọ và phước lạc thì quy y Phật Vô Lượng Thọ.  Trái lại, trong tư tưởng Mật giáo, A Di Đà được xem như là Diệu Quang Sát Trí của Đại Nhật Như Lai (大日如來;  S: Vairocana).

Vairocana -Wikipedia
Đại Nhật Như Lai – Wikipedia tiếng Việt

3) Chánh niệm “A Di Đà”.
          Tu là sửa, tu trong Phật giáo là tu tâm, là sửa chữa tâm như sau:
    Tâm loạn động    =>  Tâm ổn định.             (thực hành tâm Định)
    Tâm mê lầm       =>  Tâm tỉnh sáng.          (thực hành tâm Tuệ)
          Thực hành tu tâm chính là thực hành Chánh niệm. Theo Tịnh Độ tông Chánh niệm là Niệm Phật, có 2 phương pháp niệm Phật chính:      
          1/. Niệm Phật định = Niệm Phật Tam-muội, nhằm giúp tâm ổn định bằng việc thực hành Trì danh niệm Phật, hoặc Quán tượng niệm Phật, hoặc Quán tưởng niệm Phật.
          Hành giả thông thường thực hành câu niệm “Nam mô A Di Đà Phật” với ý nghĩa là “Kính ngưỡng đức Phật A Di Đà”, hay “Hãy tin sâu vào đức Phật A Di Đà”.  Trong đó, A Di Đà được xem là một vị Phật cổ xưa tương tự như đức Phật lịch sử Thích Ca.
          Định đạt được từ thực hành này của hành giả thuộc Tam giới định, tức các tầng định thuộc Tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) hình thành từ sự tập trung tâm trên một đối tượng, đặc trưng là Tứ thiền-Bát định.
          2/. Niệm Phật tuệ = Niệm Phật Ba-la-mật, nhằm giúp tâm tỉnh sáng (giác ngộ chân lý) bằng việc thực hành Thực tướng niệm Phật.
          Hành giả thông thường thực hành câu niệm “Nam mô A Di Đà Phật” với ý nghĩa là “Hãy nương tựa vào chân lý giác ngộ Duyên khởi”, hay “Hãy hiểu sâu và hành đúng theo chân lý Duyên khởi”.  Trong đó, A Di Đà được hiểu là “Vô lượng quang + Vô lượng thọ (= chân lý Duyên khởi)” như đã giải thích ở mục 2) bên trên.
          Định đạt được từ thực hành này của hành giả thuộc Chánh định, hình thành từ tuệ minh sát (= tuệ giác) trên mọi đối tượng, ví như ở Bát Chánh Đạo.


Hoan nghênh các bạn góp ý trao đổi!

***


Huy Thai gởi