Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 
TÔI ÐÃ “GÓP PHẦN ĐÁNH ĐỔ HỆ-THỐNG XÃ-HỘI CHỦ-NGHĨA BA-LAN VÀ ÐÔNG-ÂU”



Ðể điều-tra về các điệp-vụ của tôi, lúc tôi cầm đầu Ngành Ðặc-Cảnh Vùng I (1973-75), nhắm vào hai nước cộng-sản Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi, cơ-quan Công-An Việt-Cộng Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng, thừa lệnh Bộ Nội-Vụ của chúng, đã thực-hiện một cuộc thẩm-vấn vô cùng quy-mô.

Thật ra thì tuy tôi đã bị bắt giải từ Nha-Trang ra Ðà-Nẵng từ ngày 26-4-1975, trải qua nhiều Trại (Kho-Ðạn, An-Ðiềm, Kho-Ðạn, Hội-An, An-Ðiềm, Ðồng-Mộ, “Nhà-Trắng” Thôn 5, Tiên-Lãnh I), nhưng không khai-báo − và các bạn khác, nếu cũng bị bắt, chắc cũng không khai-báo gì − nên nhiều năm sau chúng mới biết được, chút ít mà thôi, về các hoạt-động nói trên.

Cho mãi đến ngày 16-10-1980, năm năm rưỡi sau, chúng mới đưa tôi từ trại ở núi về thành, để chuẩn-bị cho cuộc hỏi cung này.  Hình như tin-tức mà chúng có được để làm cơ-sở hỏi cung sau này là những tài-liệu lấy được của ta − hoặc từ bộ-phận “Ðiều-Hợp” của Bộ Tư-Lệnh Ðặc-Cảnh Trung-Ương, hoặc từ trong hố hồ-sơ mà Ban Văn-Thư của Ngành Ðặc-Cảnh Vùng I chuyển đến chôn tạm sau vườn Trung-Tâm Huấn-Luyện Tình-Báo Miền Trung (rồi không có dịp trở lại để thiêu-hủy đi).
 

Tôi tin là sau biến-cố 30-4-1975 tại Việt-Nam, CIA đã áp-dụng ngay các biện-pháp an-toàn cho các điệp-vụ, nhất là điệp-viên chính-yếu, cấp cao, ở hai nước ấy, ít nhất thì cũng đưa họ tránh ra nước ngoài, và thay-đổi hết ngụy-thức & mật-hiệu giao+liên.
 

Chúng nhốt tôi riêng trong một buồng giam tại trại Kho-Ðạn (Chợ Cồn), trong lúc mỗi buồng như thế ở cùng một dãy và các dãy khác đều nhốt năm/sáu chục người.

Cửa chính và các cửa sổ trước+sau đều bị đóng tôn che kín, chỉ chừa có một lỗ nhỏ chừng hơn bàn tay để chúng nhòm vào quan-sát kiểm-soát hoặc ra lệnh gì cho tôi.  Chúng muốn ngăn-cách tôi với các nghi-can/phạm-nhân khác, vì họ có dịp ngang qua buồng tôi để đi khai cung, tắm giặt, múc nước, nhận quà thăm+nuôi, v.v...

Chúng cho khiêng vào buồng tôi một thùng phuy lớn, cho đổ nước đầy mỗi ngày hai lần, lại còn cho bắc một ống nước máy vào cho tôi dùng.

Chúng cho bác-sĩ và y-tá vào săn-sóc tôi mỗi sáng, mỗi chiều (tôi bị chấn-thương cột sống vì một tai-nạn xe hơi, trên đường chúng chở từ Tiên-Lãnh về).
 

Ðặc-biệt hơn hết là chúng cho tôi được hưởng quy-chế “tiểu-táo” − có một người tù hình-sự đặc-trách nấu ăn cho tôi.

Anh này trổ tài nấu-nướng, ba bữa mỗi ngày; chỉ bữa điểm-tâm là ít đổi món, còn hai bữa chính thì bữa nào cũng có thức ăn mới, nóng hổi, thơm phức; thịt/cá/tôm/cua là chuyện quá thường; bánh/kẹo, trái cây; nước trà; dọn bằng bát sứ, đũa mun; v.v...

Ðối với một “cải-tạo-viên” như tôi, cũng như hằng vạn đồng-tù, đói khổ từ bao năm nay, thì đây quả thật là những bữa tiệc cao-lương.

Tên Giám-Thị-Trưởng phân-bì là tôi sướng hơn lãnh-đạo của chúng.  Các tên Bảo-Vệ thì thường chực lúc cơm đã đưa vào là đến nhòm vào, bảo tôi giở các nắp đậy cho chúng nhìn xem bữa nay có những món gì, nét mặt không giấu được vẻ thèm-thuồng.
 

(Tôi được “bồi-dưỡng” như thế trong ba tháng liền, xong trở lại ăn bình-thường cả một tháng rưỡi, rồi mới được trả về trại Tiên-Lãnh vào ngày 02-3-1981.  Khi tôi vào phòng, anh+em đã đi lao-động, chỉ có thiếu-tá Lê Quang Ngộ ở nhà trực làm vệ-sinh.  Ngộ hỏi tên tôi, hồi trước ở cơ-quan nào.  Khi tôi nói ra, Ngộ đã trố mắt kêu lên:  “Trời ơi! Anh Nhuận đâu mà mập dữ thế này!”)
 

Buổi trưa, sau khi các buồng ăn xong, không còn người nào ra ngoài, chúng cho tôi ra tắm nắng nửa giờ.  Nửa tháng một lần, chúng cho một thợ hớt tóc đến cắt+tỉa+cạo cho tôi.  Gã này lắm mồm, hỏi tôi đủ chuyện, nhưng tôi nghi là tai+mắt Công-An nên chỉ ừ-ào cho xong.  Gã hỏi có phải tôi là cán-bộ Công-An, rồi gã tự đáp là gã đoán đúng; rồi gã nâng tôi từ cấp thiếu-tá, lên cấp trung-tá, rồi lên thượng-tá, cuối-cùng gã nói gã tin tôi là đại-tá, và phải là cấp lãnh-đạo ở Liên-Khu này, ở Miền Trung này.  Gã lý-luận thêm: nếu tôi là cấp Trung-Ương thì hẳn đã được đưa ra thủ-đô; còn nếu chỉ là cấp Tỉnh mà đã bị “cách ly” rồi thì đâu còn được đối xử đặc-biệt thế này!
 

Chúng bồi-dưỡng tôi vì hai lý-do: chúng cần tôi khai nhiều hơn những điều đã khai lắt-nhắt mấy lần trước đây, vì sắp có các Phái-Ðoàn Phản-Gián Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi đến hỏi cung tôi, sợ tôi khai với bọn kia nhiều hơn thì chúng mất thớ về mặt chuyên-môn; ngoài ra, chúng muốn trình-bày trước các đồng-chí Ðông-Âu một tên tù ngụy “đỏ-da thắm-thịt” biểu-trưng chính-sách “khoan-hồng/nhân-đạo” của Ðảng Cộng-Sản Việt-Nam!
 

Chúng nói phía chúng sẽ dùng tiếng Nga, tiếng Ba-Lan, và tiếng Hung; và hỏi tôi chọn tiếng gì để chúng biết trước, vì chúng cho phép tôi nói trực-tiếp với các phái-đoàn hỏi cung.  Tôi nói tôi chọn tiếng Pháp hoặc Anh.  Chúng bảo tôi dùng tiếng Anh, và cho người nhà gửi vào cho tôi một cuốn từ-điển tiếng Anh bỏ túi (cuốn từ-điển này tôi bảo dùng để khai cung nên tôi được giữ cho đến ngày ra khỏi tù).
 

Chuẩn-bị ba tháng xong xuôi, chúng chở tôi đến trụ-sở của Sở Công-An Nhân-Dân Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng.

Ðây là tòa lầu bốn tầng, cùng với những dãy, trạm, kho phụ-thuộc, do chính tù-nhân “cải-tạo” mới xây-cất lên, chiếm hết khu nhà+đất cũ của Bộ Chỉ-Huy CSQG Thị-Xã Ðà-Nẵng (mà khu-vực chính chỉ có 2 tầng, vốn chỉ ở trên một đường), luôn cả mấy khu nhà+đất kế-cận, tạo thành góc đường.  Cổng chính bây giờ nằm trên mặt đường lớn hơn.  Mới nhìn thoáng qua đã thấy tầm-cỡ to-lớn của ngành Công-An Việt-Cộng, vượt trội nhiều lần so với trụ-sở Cảnh-Lực VNCH.

Chúng đưa tôi lên một phòng ở tầng thứ ba, trong đó có thiết-trí sẵn đèn pha, những máy ghi-âm, chụp ảnh, quay phim, v.v...
 

Tôi ngồi đầu bàn; bên trái là thông-dịch-viên, đại-diện Bộ Nội-Vụ Việt-Cộng, đại-diện Sở Công-An Việt-Cộng Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng; bên phải là ba người nước ngoài, được giới-thiệu với tôi là cán-bộ phản-gián cao-cấp của Bộ Nội-Vụ Hung-Gia-Lợi.

Qua vị-trí ngồi, cách nói-năng, thái-độ ứng-xử với nhau, tôi đoán tuy chúng lần này hỏi tôi về Hung-Gia-Lợi, nhưng gã ngồi giữa là Nga (Liên-Xô), gã ngồi gần tôi thật-sự là Hung, còn gã đằng kia có thể là Ba-Lan.  Liên-Xô thì vẫn cai-trị cả hai nước ấy, hẳn không bỏ lỡ cơ-hội làm chủ trong công-tác này; và Ba-Lan thì cũng cần quan-sát nghe-ngóng vụ này, vì cả Ba-Lan lẫn Hung đều là nạn-nhân trong các công-tác liên-hệ của tôi.
 

Gã ngồi ở giữa chủ-động chất-vấn, hỏi nhiều về sự cố-vấn, yểm-trợ, phương-thức hoạt-động của CIA.  Gã ngồi gần tôi hỏi nhiều chi-tiết linh-tinh về Hung.  Gã ngồi đằng kia hỏi về sinh-hoạt chung-đụng giữa Hung-Gia-Lợi và Ba-Lan.  Hơn nữa, ba người cùng một cơ-quan mà giữ tư-thế khách-sáo với nhau, và có những lúc họ đã phản-ứng khác nhau trước lời trình-bày của tôi..

Khi tôi nói rằng trong Nam đã có một thành-viên Hung-Gia-Lợi công-khai xin ra hồi-chánh với Việt-Nam Cộng-Hòa, thì gã ngồi giữa quay nhìn vào mặt gã ngồi gần tôi; gã này đỏ mặt lúng-túng phân-bua.  Khi tôi kể chuyện các tướng Hung-Gia-Lợi thường từ Sài-Gòn ra Ðà-Nẵng đến ăn uống tại quán “Danube” thì gã này khoe là sông Danube chạy ngang qua Hung.

Khi tôi nói rằng các thành-viên Hung có “cảnh-giác” hơn Ba-Lan, vì có một số thành-viên Ba-Lan thường gặp các nữ-y-tá Tây-Ðức, thì gã ngồi giữa quay nhìn vào mặt gã ngồi đằng kia; gã ấy làm bộ chán-ngán lắc đầu.  Lại nữa, chúng đưa tôi xem một bức ảnh của ông George, một Người Bạn Ðồng-Minh cũ của tôi (chụp chung tại Ban Liên-Hợp Quân-Sự 2-Bên), hỏi tôi có quen hay không.  Mà George thì Người Bạn Đồng-Minh Ferguson có cho tôi biết là qua Ba-Lan chứ không qua Hung.
 

Rõ-ràng là chúng chống Mỹ, nên tôi lợi-dụng dịp này để tỏ rằng mình cũng có chống Mỹ, bằng cách “tố-cáo” các hành-động “đế-quốc” của Mỹ, tỷ như: gài mìn hải-cảng Hải-Phòng năm 1972 khiến tàu Liên-Xô và tàu Hoa-Cộng không vào bến được, phải đựng tiếp-liệu trong bao nylon mà thả cho sóng trôi vào (tôi ở miền Nam mà cũng nhận được một số gạo bao, thịt lon, v.v...); hành-quân trực-thăng vào tận trại giam tù-binh Sơn-Tây năm 1970, may “ta” đã dời đi trước, nếu không thì Mỹ đã cứu được hết tù-binh về rồi!
 

Tôi cố ý kể những chuyện tương-tự, như đã từng làm trong suốt thời-gian bị “cải-tạo” tập-trung, để nhắc cho chúng thấy được khả-năng của Mỹ: tiến sát vào bờ, bay sâu vào trong nội-địa miền Bắc Việt-Nam...
 

Nói về những việc có vẻ tố-Mỹ như thế thì tôi nói nhiều, nhưng về trọng-tâm khai-báo là các tổ-chức nội-tuyến của ta bên trong nội-bộ của chúng thì lẽ tất-nhiên tôi chỉ thú-nhận càng ít càng hay.
 

Sau cuộc hỏi cung, thấy không thu-thập được gì nhiều hơn, chúng bảo tạm ngưng để nghiên-cứu thêm.

Chúng bắt tôi chờ thêm một tháng rưỡi, chấm dứt ăn ngon; và vì không thấy Hà-Nội và các nước kia nói gì nên Công-An Tỉnh đã trả tôi về trại Tiên-Lãnh I trở lại làm tiếp lao-nô.

Đến ngày 09-4-1981, chúng đưa tôi về trại Kho Ðạn lại.

Lại chờ.

Sau cùng, Hà-Nội quyết-định để cho Trung-Ương của chúng trực-tiếp hỏi cung tôi.
 

Tôi bị đưa ra Hà-Nội, vào ngày 15-7-1981, và giam tại Trại đặc-biệt của Bộ Công-An Việt-Cộng, ở Xã Thanh-Liệt thuộc Huyện Thanh-Trì.

Chúng có mấy lần đưa tôi đi Hà-Nội để “tham quan” thủ-đô.  Trong thời-gian đó các loa phóng-thanh phổ-biến tin-tức về “Ðại-Hội 5” − đại-hội này đã bị hoãn lại mấy lần từ cuối năm ấy đến đầu năm sau.

Tôi nghe ở một tiệm phở người ta bàn-tán về tin báo đăng đại-tá Việt-Cộng Lê Ðức Anh mới được thăng lên thiếu-tướng (tuớng một sao) và được đưa vào Bộ Chính-Trị Trung-Ương Ðảng để kịp dự Ðại-Hội Ðảng kỳ này, đầu năm 1982 (Theo cuốn “Ðại Thắng Muà Xuân” của Văn Tiến Dũng, mà tôi đã đọc trước đó, thì Lê Ðức Anh đã là trung-tướng từ năm 1974).
 

Vào ngày đã định, bộ-phận Chấp Pháp (Thẩm-Vấn) tổ-chức cho tôi khai cung trực-tiếp trước sự viễn-thính kiểm-tra của chính Phạm Hùng, cựu chính-ủy Trung-Ương-Cục Miền Nam, lúc đó là Phó Thủ-Tướng kiêm Bộ-Trưởng Bộ Nội-Vụ (Công-An), xử-lý thường-vụ Thủ-Tướng Chính-Phủ Cộng- Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam, những khi vắng mặt Phạm Văn Ðồng.
 

Hôm ấy, vào khoảng cuối năm 1981, chúng chở tôi đến một quán bên đường gần Tòa Ðại-Sứ Cuba, xong chia ra làm hai nhóm, đi bộ qua hai con hẻm khác nhau, rồi vào một ngôi nhà gạch kiểu Pháp khoảng giữa các đường Lý Thường Kiệt và Trần Hưng Ðạo, vào một căn buồng có vẻ vừa-là-chỗ-ở vừa-là-văn-phòng.  Hai cán-bộ trẻ, tên Trần Trung Chính và Hoàn (cỡ như một gã tôi thấy đến Trại Tiên-Lãnh, mới trên 20 tuổi mà đã mang cấp-hiệu thiếu-tá; bọn tù phục-dịch Ban Giám-Thị Trại nói là “lớp mới, tốt-nghiệp ở Liên-Xô về”), lâu nay tiếp-xúc với tôi, nay nhường cho một gã khác, mà chúng gọi là “ông tướng”, đứng ra chủ-trì cuộc gặp mặt này.

Tên Hoàn dặn tôi phải giữ lễ-độ trước mặt “ông tướng”, nhất là có sự theo-dõi của ông Thủ-Tướng Phạm Hùng.
 

Khi gã “ông tướng” đến rồi, tên gác phòng này bưng khay bình-và-tách trà đã pha ra để trên bàn tiếp khách, rồi đi khuất vào cửa sau.  Các tên Chính & Hoàn tỏ vẻ kính nể “ông tướng” ra mặt, nói gì cũng đứng thế nghiêm, xong lui ngồi gần cửa chính và cửa phía sau, như để ngăn chừng không cho ai đến quấy rầy.  Tôi đoán gã phải là một Tổng-Cục-Trưởng hay Cục-Trưởng gì đó ở Bộ Nội-Vụ (Công-An).
 

Thấy tôi liếc nhìn những máy điện-thoại, bộ-đàm, nội-đàm, ống kính, micro, loa, v.v... trên bàn, trên kệ, trên tường, trên trần, gã “ông tướng” nói:

− Thì cũng là “nhà an toàn” như của các anh trong Nam!

Gã đã “đả thông tư tưởng” của tôi rất lâu; có những bài+bản mới hơn những cái mà mọi cán-bộ Việt-Cộng từ trên xuống dưới đều đã đem ra thực-hành lâu nay.

Gã nói:

− Giữa anh và tôi, chúng ta có tình đồng hương: tôi ở Quảng Bình, anh ở Thừa Thiên.  Trong tình đồng hương với nhau, tôi sẽ hết sức giúp anh.  Và anh cũng hãy giúp tôi.

Trước nay chỉ có những người cùng Tỉnh lập hội đồng-hương với nhau, nay Tỉnh Quảng-Bình tận tuốt ngoài kia của Tỉnh Quảng-Trị mà gã cũng bảo đồng-hương với tôi ở Tỉnh Thừa-Thiên tận tuốt trong kia! (tôi chưa biết chúng đã lập Tỉnh “Bình-Trị-Thiên”).

− Anh đã trở về, làm dân của nước Việt Nam, có Ðảng lãnh đạo, có Nhà Nước quản lý.  Anh có bổn phận đối với quốc gia.  Ở tuổi của anh, chắc anh đã biết thế nào là “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung?”

Tự-nhiên tôi thấy buồn cười.  Tôi nói tiếp theo:

− Phu xử phụ tử, phụ bất tử bất nghĩa.  Phụ xử tử tử, tử bất tử bất hiếu!

Gã cười lớn lên, khoái chí gật đầu.  Hai tên cán-bộ dưới quyền của gã ngơ-ngác không hiểu gã và tôi nói gì.

− Các ông ra lệnh cho tôi phải khai, nếu tôi không khai thì các ông sẽ giết tôi?

− Tốt!  Thế là anh đã hiểu rồi!

Gã nói tiếp theo:

− Tuy nhiên, giữa anh và tôi, chúng ta đều là đồng nghiệp, chỉ khác chiến tuyến mà thôi!

Gã thêm:

− Nhưng điều quan trọng là chúng tôi có lý tưởng, có Ðảng sáng suốt chỉ đường!

Gã nói về những khiếm-khuyết, lầm-lẫn “không thể tránh được” của một số người và việc; và xác-quyết rằng Ðảng biết sửa sai, nhất-định cuối-cùng “Ta” sẽ thành-công.
 

Gã nói:  từ ngày “giải phóng” Miền Nam đến nay (1981), nhiều đợt cán bộ rành nghề nghiên cứu đã đọc hơn hai mươi tấn hồ sơ tài liệu bắt được của “Ngụy” Miền Nam, nhưng mới chỉ là một nửa, và đọc dở chừng thì họ đã chết hết rồi − chết vì tuổi già − cho nên chưa thể kết thúc điều tra, vẫn cần tập trung “cải tạo” các anh cho đến bao giờ nắm được mức độ tội lỗi thật sự của từng cá nhân!

Gã nói rằng tôi là một nhân-tài, làm được những việc động trời.  Cứ như bên phía của gã, thì hễ thực-hiện được một điệp-vụ như thế − mà hiếm vô-cùng, có khi mỗi vụ cả chục năm trời mới thành − thì được thăng cấp vượt bậc, đưa lên “Trung-Ương” để làm giảng-sư, dùng các kinh-nghiệm đã có để chỉ-đạo cho các lớp đi sau; huống gì tôi đánh một lần vào nhiều đối-tượng, trong cả hai đảng, hai nước, có vụ chỉ trong mấy tuần, mà đã đạt được yêu-cầu!

Gã nói:  nhờ các đồng-chí Trung-Ương cũng như Ba Lan và Hung Ga Ri chú ý đến tôi, nên chúng lục đọc hồ-sơ cá-nhân của tôi tại Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia, và thấy có mấy năm liền có những báo-cáo thống-kê thành-tích diệt-Cộng của tôi − hạ-sát hằng trăm, bắt sống hằng nghìn, chiêu-hồi vô-số − thế mà chúng có thấy tôi được tưởng-thưởng gì thật xứng-đáng đâu, lại còn nhiều phen bị phạt, bị đày!

Tôi nói:  vì tôi chống lại cả hai chế-độ Miền Nam.
 

Gã thấy không khích được tôi thù-hận Chính-Quyền Miền Nam, mà lại tưởng tôi kể công “chống Ngụy”, nên gã đổi giọng, đập bàn la lên:

− Anh chống bọn chúng vì anh muốn cho chế độ của chúng tốt hơn, đẹp hơn, trong sạch hơn, hùng mạnh hơn, để giết chúng tôi, để diệt chúng tôi, chứ đâu phải để hưởng ứng “Cách Mạng”, về với “Nhân Dân”!
 

Lát sau, chuông dây-nói reo, gã cầm ống nghe, đứng dậy mà nghe, liên tiếp trả lời “Vâng! Vâng! Báo cáo thủ trưởng, nhận rõ!” một hồi, xong ngồi xuống ghế, ra hiệu cho Chính và Hoàn bắt đầu.

Tôi đoán là chúng mở máy ghi-âm, thu-hình, và thu+phát-thanh, hoặc để ống nghe điện-thoại ra ngoài.

Gã nói với tôi:

− Ðây là cơ hội cuối cùng cho anh “lập công”.  Mỹ đã cút, Ngụy đã nhào, anh không còn gì để phải giấu che.  Chỉ cần cung cấp một vài thông tin về hoạt động của CIA ở Ba Lan và Hung Ga Ri là anh được tha về ngay.  Trần Văn Hai, Tổng Giám Ðốc của anh; Bùi Văn Nhu, Tư Lệnh Phó trung ương của anh; đều đã khai xong, và đã được cho ra Trại lâu rồi (sự thật là chuẩn-tướng Trần Văn Hai đã tử-tiết ngay từ đầu, và chuẩn-tướng Bùi Văn Nhu thì từ-trần trong trại lao-cải tập-trung).

Gã nói:

− Anh hãy tưởng tượng, vào một buổi sáng đẹp trời, cán bộ Chính, hoặc cán bô Hoàn ở đây, là người cùng đi với anh, sẽ sánh vai anh từ trên xe lửa bước xuống sân ga Nha Trang; ở đó, có vợ con anh, đã được báo trước, đứng sẵn đón anh trở về.  Gia đình tái hợp, bắt đầu làm lại cuộc đời.  Cán bộ của Bộ sẽ họp ngay với lãnh đạo địa phương để lo sắp xếp mọi sự dễ dàng cho anh, như họ đã làm cho các anh Hai, Nhu, và nhiều người khác...

Gã vói tay qua cầm lấy tay tôi ra vẻ thân-tình:

− Tôi đã tâm sự với anh về những khó khăn của “Ta”.  Nhưng “Ta” còn các đồng chí Ba Lan và Hung Ga Ri, và họ cũng gặp khó khăn như “Ta”.

“Chắc anh thừa hiểu là đế quốc Mỹ là bọn sen đầm quốc tế; chúng cho CIA xâm nhập đánh phá các Ðảng Cộng Sản khắp nơi.  Huống gì đã có tay trong trong hai Ðảng ấy, từ các công tác của anh cài vào.

“Riêng tại Ba Lan, lâu nay chúng đã cài cấy thêm nhiều tai mắt tay chân, như vòi bạch tuộc, chằng chịt bên trong hàng ngũ của “Ta”.  Hiện nay chúng đã khích động các giới lao động thợ thuyền, giật dây bọn trí thức tiểu tư sản, và lợi dụng các nhà thờ Ky Tô.
 

“Một tên chủ tịch công đoàn bất hợp pháp, có tên “Ðoàn Kết”, cầm đầu công nhân nhiều nơi nổi lên, bị “Ta” trấn áp vừa rồi.  Một tên hồng y Ba Lan được chúng phong lên giáo hoàng, đã qua trình diện tổng thống Hoa Kỳ, phát biểu phản động tại đại hội đồng Liên Hợp Quốc, và về Ba Lan xúi giục tín đồ phản bội Ðảng và Nhân Dân; vì y xen lấn vào chuyện chính trị nên bị giết hụt mới đây...
 

(Những tin-tức ấy thì tôi đã có biết rồi, và biết nhiều hơn.  Số là chúng có thỉnh-thoảng đưa vào giam chung với tôi, mỗi lần một tên khác nhau.  Mới nhất là tên Nguyễn Văn Dũng, kỹ-sư địa-chất tốt-nghiệp từ Liên-Xô về.  Hắn bị bắt tại sân bay Nội Bài và đưa thẳng đến Trại này vì đã mang lậu về nước một số mặt hàng.  Hắn nói hắn là em họ của Lê Quỳnh, diễn-viên điện-ảnh Miền Nam.  Hắn nói là tại Liên-Xô hắn xem truyền-hình tự-do; thí-dụ, hắn thấy chiếu cảnh tướng Nguyễn Cao Kỳ dẫn vợ qua Bắc-Kinh, và hắn khen bà Kỳ đẹp.  Trong số những chuyện hắn kể cho tôi nghe, có chuyện tình-hình mới nhất ở Ba-Lan).
 

“Ông tướng” kết-luận:

− Chủ Nghĩa Xã Hội sẽ thắng quang vinh; đó là xu thế không thể đảo ngược, và là chân lý của thời đại này..  Riêng anh, tự do của anh, hạnh phúc gia đình của anh, tương lai của anh, tất cả đều do nơi anh.  Và chúng tôi chỉ giải quyết có lần này thôi.  “Cách Mạng” đã biết những tên CIA nào hoạt động tại Miền Nam, những tên CIA nào hoạt động tại Ba Lan và Hung Ga Ri.  Các tên đầu sỏ bị bắt hết rồi; “Ta” đang tiếp tục lùng tìm tay chân của chúng cài cấy dày đặc khắp nơi.  “Cách Mạng” cần thêm thông tin của anh để phát hiện thêm, những tên tay sai, phản bội, nhất là phương thức liên lạc tiếp xúc đặc biệt dùng giữa bọn chúng với nhau.

Tôi đã đoán trước thế nào chúng cũng hỏi đến điều này, nên trả lời ngay:

− Tôi có nói ra thì cũng vô-ích, mà còn có thể có hại vì bị “Cách-Mạng” tưởng lầm là tôi khai dối, khai gian.

− Anh cứ nói đi!
 

− Tôi không có gì để khai, khác hơn những điều đã khai trước đây.  Tóm lại, về CIA thì tôi không biết, vì các Người Bạn Ðồng-Minh của tôi thì chỉ hoạt-động ở Vùng I thôi, còn các người nào hoạt-động tại Ba-Lan và Hung-Ga-Ri thì các cấp trên của họ phái đến từ những nơi nào ngoài tầm hiểu biết của tôi.  Hơn nữa, họ thường sử-dụng tên giả, lý-lịch giả; ngay cả nhân-dáng cũng có thể giả, nghĩa là giải-phẫu thay-dạng đổi-hình mỗi lần thay đổi chức-vị, địa-phương.  Về các kế-hoạch hoạt-động thì, theo quy-luật an-ninh trong ngành tình-báo, mỗi ngụy-thức, ngụy-tích, chỉ-dấu an-toàn, tín-hiệu nhận nhau, v.v... chỉ có giá-trị trong một thời-gian mà thôi; sau đó là phải đổi mới; ai dùng cái cũ tức là kẻ gian, kẻ thù.  Huống gì, tình-thế đổi thay, hơn sáu năm rồi, tin-tức của tôi, nếu nhớ thật đúng, thì cũng không còn có hiệu-lực gì.

− Anh đã dứt khoát không chịu khai thêm, phải không?

− Vâng ạ.

− “Cách Mạng” khoan hồng cho anh, lãnh đạo Trung Ương chiếu cố đặc biệt đến anh, mà anh từ chối, phải không?

− Phải.

Gã “ông tướng” trợn cặp mắt tóe lửa nhìn tôi:

− Hừ!  Tôi báo trước cho anh biết: chỉ trong vài hôm nữa thôi, tất cả các thành phần phản động tại Ba Lan cũng như Hung Ga Ri đều sẽ phải đền tội trước tòa án nhân dân; và ngay cả bọn CIA liên quan cũng sẽ bị Nhà Nước có chủ quyền của hai nước ấy trừng trị thẳng tay.  Thành trì xã hội chủ nghĩa bất cứ ở đâu cũng sẽ ngày càng bành trướng vững vàng.  Sẽ không bao giờ xảy ra sự cố mà bọn đế quốc và lũ tay sai như anh hằng mơ, để anh có thể “tự hào” là chính anh đã góp phần đánh đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa tại Ba Lan và Hung Gia Ri, kéo theo sự sụp đổ của cả Khối Cộng Sản Ðông Âu!  Có phải bọn chủ CIA của anh đã nhồi nhét cái ý tưởng hão huyền ấy vào trong đầu óc vong bản của anh hay không?
 

(Lúc đó, vào năm 1981, Cộng Sản Vịệt Nam chỉ biết là Ba Lan và Hung Gia Lợi bị tôi tổ chức xâm nhập giùm cho CIA từ năm 1973, nên mới suy luận là nếu cộng sản tại hai nước ấy mà sụp đổ thì sẽ kéo theo cả sự sụp đổ tại các nước kia, vì Ba Lan có thủ đô Vác Xô Vi (Warsaw) là trung tâm của các lực lượng quân sự Liên Xô đối đầu với Khối NATO của Thế Giới Tự Do tại Âu Châu. Sau này, khi sự suy diễn của họ trở thành hiện thực, thì cái trình tự nói trên đã đảo ngược lại: Từ năm 1985, lãnh tụ Mikhail Gorbachev của Liên Xô đã chủ trương Perestroika (cải tổ chính trị và kinh tế) và Glasnost (cởi mở tư tưởng); đến năm 1989 thì cộng sản tại các nước trong Liên Bang Xô Viết đã tự chấm dứt, và cuối năm ấy, cộng sản tại Hung Gia Lợi cũng đã hạ màn.  Chính Liên Xô đã tự lột xác từ năm 1985, mở đưởng cho các quốc gia thuộc quyền lần lượt về với Tự Do trước, rồi chính mình sẽ chính thức giải thể sau.  Cuối năm 1989, cộng sản Đông Đức phá bỏ bức tường Bá Linh, mở cửa ra với Tây Phương.  Đến cuối năm 1990 thì cộng sản Ba Lan cáo chung. Thế là tan rã toàn Khối cộng sản cả Đông Âu lẫn Liên Xô).

− Nhẹ không muốn mà muốn nặng thì là do anh!
 

Mặc dù tôi luôn sẵn-sàng đón nhận hình phạt tối-đa là cái chết, nhưng vì không biết mình sẽ bị giết cách nào, và vì đã thấy nhiều bạn bị chúng hành-hạ dã-man trước lúc lìa đời, nên tôi cảm thấy thần-kinh căng thẳng tột cùng.
 

Không-khí ngột-ngạt một lát thì chuông dây-nói vang lên.  Gã cầm ống nghe, đứng dậy trả lời:

− Vâng! Vâng!  Bộ sẽ trả về cho Tỉnh.  Báo-cáo đồng-chí lãnh-đạo, nghe rõ!
 

Tôi được chở vào trả lại cho Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng, cũng bằng máy bay, vào ngày 20-4-1982.
 



LÊ XUÂN NHUẬN
 

Cộng-Sản Đông-Âu

Biến-Loạn Miền Trung


Đỗ Hứng gởi