Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 
TÔN GIẢ A NAN ĐỆ NHẤT ĐA VĂN


II. NGƯỜI THỊ GIẢ TRUNG THÀNH

Đó là mùa an cư kiết hạ tại tinh xá Kỳ Viên (Jetavana), gần kinh thành Vương Xá (Rajagaha), khi ấy Đức Phật đã năm mươi lăm tuổi. Vào một buổi sớm mai, dưới những tàng cây cổ thụ của tinh xá, Đức Phật cho triệu tập chư Tăng. Hôm đó bầu trời rất cao và trong xanh, những cơn gió của mùa hè lao xao trên tán lá làm cho không khí trở nên vừa mát mẻ, vừa thiêng liêng như dự báo trước sắp diễn ra một sự kiện quan trọng. Đợi khi Tăng chúng đã ổn định, Đức Phật dạy rằng Người đã có tuổi, thân thể ngày càng suy yếu nên hãy sắp xếp cho Người một vị Thị giả ưng ý để hầu cận và đặc biệt là ghi nhớ những lời dạy của Thế Tôn, dù rằng trước đây cũng đã có vài Tỳ kheo làm Thị giả cho Người.

Thế Tôn vừa ngừng lời, nhiều vị Tỳ kheo xin được trở thành Thị giả, nhưng Người im lặng khước từ. Lúc ấy, Tôn giả A Nan, đang khiêm tốn nép mình phía sau và giữ im lặng. Vì lòng kính ngưỡng và trọn tin nơi Thế Tôn, Tôn giả tin rằng Thế Tôn biết rõ ai là người đủ nhân duyên thích hợp. Dù không bày tỏ ước vọng của mình, nhưng trong tâm Ngài luôn tha thiết mong muốn ngày đêm được hầu cận chăm sóc Thế Tôn.

Khi đó Tôn giả Mục Kiền Liên (Maha Moggallana) với tâm của một vị A La Hán biết rằng, Đức Bổn Sư cũng đang đặt tâm vào Tôn giả A Nan. Vì thế, Ngài đề cử Tôn giả A Nan trở thành vị Thị giả hầu cận Thế Tôn.

Đức Thế Tôn mỉm cười đồng ý. Người khen ngợi Tôn giả A Nan là một Tỳ kheo trí tuệ và tinh tế. Dù chưa chứng đạt Tha Tâm Thông nhưng Tôn giả rất hiểu ý của Thế Tôn, sẽ chăm lo tận tình chu đáo, khéo biết thời điểm để thưa hỏi và sắp xếp công việc cho Người.

Tôn giả A Nan quỳ xuống đảnh lễ Thế Tôn trong niềm xúc động tha thiết. Công việc hàng ngày của Tôn giả là mang nước rửa mặt, dụng cụ đánh răng, chuẩn bị tọa cụ, quét hương thất, quạt mát, vá y và rửa chân cho Đức Phật khi Người đi khất thực về. Tôn giả thực hiện những việc ấy trong niềm an lạc và tận tụy không một mảy may sơ suất.

Tùy từng thời điểm, những vị khách từ các Thầy Tỳ kheo, cư sĩ, vua quan, người dân, ngoại đạo,... muốn gặp Thế Tôn để đảnh lễ hoặc tham vấn đều sẽ được Tôn giả sắp xếp hợp lý.

Mỗi khi Đức Phật cần gặp chư Tăng để giảng dạy, dù là giữa đêm khuya, Tôn giả sẽ cần mẫn đến tận nơi để thông báo tới từng vị và sau buổi giảng cũng chính Ngài là người kiểm tra xem các Thầy có để quên vật dụng không mà trả lại.

Mỗi tối trong hương thất, Đức Bổn Sư thưởng tĩnh lặng tọa thiền, nhiều lúc Ngài thuyết Pháp cho chư Thiên thì bên ngoài Tôn giả A Nan sẽ chong đèn đi quanh để tránh mọi sự quấy rầy, rồi Tôn giả ngủ cạnh hương thất luôn để khi Đức Bổn Sư cần điều gì sẽ không phải chờ lâu.

Lúc Đức Thế Tôn mệt mỏi hay đau ốm, Tôn giả sẽ là người lo lắng xức dầu, xoa bóp, tìm thuốc chữa bệnh cho Người. Nhất là vào khoảng thời gian Thế Tôn đã lớn tuổi. Người cũng hay có những cơn đau lưng nên thường ngồi sưởi nắng vào buổi sáng, khi đó Tôn giả A Nan sẽ đến bên bóp tay, bóp chân cho Thế Tôn. Có lần Tôn giả tận tay nấu cháo cho Người. Lần khác vào đêm khuya, khi Thế Tôn đang an trú trong đại định, Tôn giả kiên nhẫn chờ đợi từng canh giờ cho đến khi trời sáng để được thưa hỏi chuyện.

Từng nụ cười, ánh mắt, cử chỉ nhỏ của Thế Tôn, Tôn giả luôn hiểu Thầy mình cần gì và hơn hết Ngài hiểu ý của Thế Tôn qua cả sự im lặng.

Có nhiều duyên sự, Đức Phật chỉ để Tôn giả A Nan đi theo. Có khi là đi giáo hóa chúng sinh hữu duyên ở làng xa, khi thì đến nơi chốn của chư Tăng sinh hoạt hay thăm hỏi một vị Tôn giả độc cư trong rừng sâu núi thẳm. Có lần, Đức Thế Tôn đích thân đến chăm sóc một vị Sa môn bị bệnh kiết lỵ trầm trọng, đang nằm chơ vơ trên đất bẩn một mình. Thế Tôn giặt khăn thì Tôn giả A Nan bưng nước. Thế Tôn tắm rửa cho vị Sa môn thì Ngài cũng ở bên nâng đỡ thân thể và lau khô cho vị ấy. Cứ như thế, bước chân của hai Thầy trò đã lặng thầm in dấu trên khắp các nẻo đường của lục địa Ấn Độ. Tôn giả ở bên cạnh Thế Tôn như hình với bóng, dù là giữa trời nắng cháy hay những đêm lạnh buốt xuyên thấu thịt da, dù là phố thị tấp nập hay núi rừng có tịch, vẫn luôn tận tụy và trung tín.

Tôn giả A Nan chính là chiếc cầu nối giữa Thế Tôn và Tăng chúng. Mỗi sự việc lớn nhỏ trong Tăng đoàn, Ngài luôn giải thích nguyên do tường tận để Thế Tôn ban giáo Pháp và đưa ra giới luật cần thiết. Cũng qua cây cầu nối đầy tình thương ấy, bóng bồ đề ân đức của Thế Tôn đã lan tỏa che mát cho Tứ chúng.

Chuyện kể rằng, có nhiều khi các thiện tín đến tinh xá để cúng dường thì Thế Tôn lại đang bận đi nơi khác giáo hóa. Vì thế, các thiện tín ấy đặt bông tươi và các trang hoa thơm trước hương thất nhưng trong lòng vẫn hụt hẫng vì không được đảnh lễ và chiêm bái Đức Bổn Sư. Vì tâm từ bi, Tôn giả động lòng trước các thiện nam tín nữ đã vượt đường xa đến tinh xá mà không được thỏa ước nguyện, Ngài liền khéo thưa hỏi và được Thế Tôn cho biết rằng, cây bồ đề đã che mưa nắng cho Thế Tôn trong bốn mươi chín ngày nhập định trước khi thành đạo xứng đáng là Thánh tích được chúng sinh chiêm bái và cúng dường. Do đó, Tôn giả Mục Kiến Liên đã chiết một nhánh bồ đề thiêng liêng ấy mang vé trồng trước tỉnh xá. Mỗi khi đảnh lễ, các thiện tín lại nhớ lời của Thế Tôn: “Cây Bồ Đề ấy sẽ giống như hình ảnh của Như Lai đang hiện diện ở nơi đây”.

Lòng thương kính mà Tôn giả A Nan dâng lên Đức Bổn Sư thật đặc biệt mà không một ai khác có thể sánh bằng. Lòng thương kính ấy vừa xuất phát từ trí tuệ của một bậc Thánh Tu Đà Hoàn đã dành trọn niềm tin tuyệt đối nơi Đấng Giác Ngộ, vừa là nghĩa tình Thầy trò gắn bó đậm đà keo sơn trong vô lượng kiếp. Nhiều lần, Thế Tôn đã kể về những mối nhân duyên ấy. Có những kiếp Tôn giả A Nan từng là anh em, con cháu, người hầu cận, đồng môn, bạn hữu, huynh đệ đồng tu với Thế Tôn. Và lúc nào Tôn giả cũng luôn sắt son, trung tín đứng phía sau phụ giúp Thế Tôn gieo trồng hạnh nguyện Bồ Tát. Vì lòng thương kính ấy, cũng không ít lần Tôn giả sẵn sàng hi sinh thân mạng mình để bảo vệ Thế Tôn.

Kinh xưa còn ghi, lần đó Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) cho voi Nalagiri hung dữ uống rượu say rồi thả vào đoạn đường mà Đức Phật đang khất thực. Con voi ấy là một chiến binh khát máu của vua A Xà Thế (Ajatashatru), đã từng phá tan nhiều trận địa, làng mạc và giết vô số người.

Từ xa con voi hung hãn với cặp mắt đỏ ngầu, điên cuồng lao đến Đức Phật trong một đám khói bụi mù mịt khiến cho tất cả những ai chứng kiến đều khiếp sợ, chạy bổ về tứ phía. Chỉ có riêng Tôn giả A Nan can đảm xông lên, đứng chắn ngang che cho Đức Ân Sư mà không một sát na do dự:

Voi Nalagiri kia, hãy giết chết ta trước! Ta quyết hi sinh để bảo vệ Thế Tôn.

Này A Nan, con hãy tránh đi, không được đứng trước Như Lai.

Nhưng ý chí của Tôn giả sắt đá đến nỗi, Thế Tôn nhắc nhở Ngài lui bước ba lần không được, đã phải dùng thần thông để nhấc bổng Ngài lên rồi nhẹ nhàng đặt sang nơi khác.

Lần ấy, voi dữ Nalagiri được tâm từ bi của Thế Tôn cảm hóa, nó phủ phục dưới chân Thế Tôn để tỏ lòng tôn kính. Lúc này, Tôn giả mới vội quỳ ôm chân Thế Tôn để bày tỏ nỗi niềm và Thế Tôn cũng khẽ đặt tay lên đầu Ngài như thay lời chỉ bảo rằng: “Thế Tôn luôn thấu hiểu lòng Thầy”.

Hai hình ảnh đó đã khiến rất nhiều người chứng kiến xúc động tột độ mà bừng ngộ được Thánh quả. Một bên là lòng từ bi cảm hóa ác tâm hung bạo, một bên là lòng trung tín tuyệt đối dâng lên Đức Ân Sư, cả hai đều vô cùng thiêng liêng và cao quý!

Tôn giả A Nan dành trọn lòng thương kính lên Thế Tôn thì Thế Tôn cũng thương yêu Ngài theo một cách đặc biệt, khi ân cần, khi nhắc nhở, đôi khi có cả những lời khiển trách cần thiết để thúc giục Ngài trong việc tu tập hướng đến quả vị cao nhất.

Thế Tôn từng bảo rằng: “Vì vậy, này A Nan, để được thọ hưởng phước lành và an vui, hãy thương mến Như Lai và không bao giờ oán hận Như Lai. Đó là vì Như Lai sẽ không đối xử với con như người thợ gốm gượng nhẹ với những chiếc bình gốm nung chưa tới. Ngược lại Như Lai sẽ nhắc đi nhắc lại với con những lời răn dạy, những lời khiển trách và sẽ thử thách con hết lần này qua lần nọ. Ai kiên định tiến tu sẽ vượt qua được thử thách này”.

Có một điều đặc biệt nữa của vị Thị giả cần mẫn ấy là suốt hai mươi lăm năm hầu cận Thế Tôn, dù Tôn giả chưa chứng đến Thánh quả A La Hán nhưng không phút giây nào có một niệm dục hay một niệm sân khởi lên trong tâm. Ngài vẫn luôn xem mình chỉ như là một hạt bụi nhỏ bé trên vạt áo của Người. Nếu phải nhận những lời khiển trách hay nhắc nhở, Tôn giả sẽ trân quý như báu vật để giúp mình hoàn thiện hơn. Ngài đã đọc lên bài kệ về chính mình:

Suốt hai mươi lăm năm
Tu tập trong dòng Thánh
Dục tưởng không khởi lên
Sân tưởng không khởi lên
Vi diệu thay giáo Pháp!

Thế Tôn tán thán Tôn giả trước toàn thể Tăng chúng rằng:“ Trong các đệ tử Tỳ kheo từng là Thị giả của Như Lai, đệ nhất là A Nan!”

Trích Thánh Độ Mệnh TÔN GIẢ A NAN (ANANDA)


___________________


Hoang Nguyen gởi