TÔN GIẢ A NAN "NGƯỜI GIÁM HỘ PHÁP BẢO - ĐỆ NHẤT ĐA VĂN"
Đạo Phật có ba ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Ba ngôi Tam Bảo là ba điều quý báu, là ánh sáng vi diệu dẫn dắt chúng sinh vượt thoát vòng xoáy của luân hồi. Đảnh lễ Đức Phật, Đức Bổn Sư, Đấng Từ Bi vô hạn với trọn lòng thiết tha tôn kính là công đức lành vượt bậc trên đời. Đảnh lễ chư Tăng, những vị xuất gia tu hành chân chính là nhân lành để tìm được đường đi thoát khỏi thân phận phàm phu. Và Pháp là những lời dạy của Đức Phật về chân lý Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, luật Nhân Quả công bằng,... Chúng sinh làm thế nào để đảnh lễ Pháp? Có một vị cư sĩ đã từng hỏi Đức Phật như vậy, Thế Tôn hoan hỉ trả lời: “Nếu muốn đảnh lễ Pháp, con hãy đến đảnh lễ A Nan, vị Giám Hộ Pháp Bảo".
Giám hộ nghĩa là người coi sóc, bảo vệ cho chánh Pháp được trường tồn. Thật như vậy, ngay kể từ lúc chưa chính thức làm Thị giả cho Đức Phật, Tôn giả A Nan đã thực hiện hạnh nguyện là một vị giám hộ Pháp Bảo đúng nghĩa. Ngài thường đi theo Thế Tôn để được lắng nghe nhiều lời dạy bảo. Với khả năng ghi nhớ phi thường, mọi điều dù chỉ nghe qua một lần đều được Tôn giả khắc tạc trong tâm không sót một từ. Vậy là cứ mỗi buổi chiều đến, Tăng chúng lại ngồi quây quần bên Ngài để ôn lại những bài Pháp của Thế Tôn. Trong không khí vừa trang nghiêm vừa thân tình, Tôn giả A Nan tuyên đọc trước, đại chúng hòa cùng tụng lại sau. Những lời đạo lý được nhắc lại với đầy đủ ngữ nghĩa và âm điệu như lúc Thế Tôn thuyết giảng cứ thế ngân nga trong buổi chiều ấm áp.
Sau này khi được làm Thị giả thân tín ở bên cạnh Thế Tôn, Ngài lại khéo thưa hỏi Thế Tôn về giáo Pháp, luật Nhân Quả, thiền định, nhân duyên của chúng sinh... để từ đó giáo Pháp của Đức Bổn Sư đã được tuyên thuyết lên với những chân lý có giá trị muôn đời. Có đôi lần, Thế Tôn mỉm cười tạo cơ duyên mở đầu một bài Pháp thoại khi đi ngang nơi nào đó. Biết bậc Toàn Giác mỉm cười là có nguyên do, Tôn giả hiểu ý và thưa hỏi, nhiều lần khác Ngài lại chủ động hỏi thưa. Vì vậy mà đã có rất nhiều bài Pháp vi diệu mở đầu bằng những câu hỏi của Tôn giả A Nan dành cho Đức Phật.
Đức Thế Tôn đã nhiều lần tán thán Tôn giả A Nan thế này:
- Trong các đệ tử Tỳ kheo biết uyên thâm giáo Pháp do được nghe nhiều lời dạy của Như Lai, đệ nhất là A Nan.
- Trong các đệ tử Tỳ kheo có trí nhớ trung thực và bền lâu, đệ nhất là A Nan.
- Trong các đệ tử Tỳ kheo có khả năng lãnh hội được những trình tự và liên kết chặt chẽ của các thời Pháp, đệ nhất là A Nan.
Tức là Tôn giả có khả năng ghi nhớ vô cùng nhanh và chính xác. Ngài cũng hiểu uyên thâm lời dạy của Thế Tôn và tài biện luận tài tình hợp lý. Những khi Tôn giả A Nan đang thuyết Pháp mà các vị Tỳ kheo đặt câu hỏi, Ngài sẽ nhắc lại từng từ từng đoạn trong lời dạy của Thế Tôn để giải đáp những thắc mắc ấy, rồi lại quay về bài giảng trôi chảy như chưa hề có sự gián đoạn nào. Với khả năng ấy, thậm chí dù chưa chứng A La Hán nhưng Ngài đã nhiều lần thuyết Pháp khiến các vị Tỳ kheo khác chứng được Thánh quả tuyệt đối trước Ngài.
Công hạnh xuất sắc đặc biệt của Ngài là công đức gieo trồng từ nhiều kiếp. Tôn giả luôn cố gắng hiểu chính xác và cặn kẽ từng ý nghĩa, tầm quan trọng, cũng như tất cả hàm ý sâu xa trong những lời Pháp Bảo. Cũng trong một kiếp xưa, Tôn giả khi ấy là một vị trưởng giả giàu có nhưng luôn tín tâm với Tam Bảo, thường cúng dường kinh sách và bảo trợ cho các vị Tăng sĩ cầu đạo được học hành chu đáo. Nhờ vậy mà đời này Ngài thành tựu trí tuệ phi thường. Thế Tôn khen rằng: “A Nan vẫn còn trên đường tu học để chứng đắc Thánh quả cao nhất, nhưng không dễ gì tìm được người có trí tuệ ngang bằng”.
Vị “Giám Hộ Pháp Bảo” không đơn thuần chỉ là người ghi nhớ lại những bài kinh màu nhiệm của Đức Phật mà còn gánh trên vai cả trọng trách lưu giữ những lời đạo lý ấy tồn tại mãi cho hậu thế. Điều đó được đánh dấu bởi sự kiện trọng đại: “Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ nhất”.
Sau khi Thế Tôn nhập Niết Bàn không lâu, Tôn giả Đại Ca Diếp (Maha Kassapa) triệu tập hội đồng gồm năm trăm vị Trưởng lão với nhiệm vụ kết tập lại những lời dạy của Thế Tôn thành Kinh và Luật để bảo tồn được nguyên vẹn. Tất cả những vị Tỳ kheo được tham dự đều phải có điều kiện là đã chứng đạt Thánh quả A La Hán tối thượng.
Tôn giả A Nan khi ấy mới đang là bậc Dự Lưu. Nhưng Ngài lại là vị ghi nhớ được nhiều nhất, chính xác nhất và thâm hiểu giáo Pháp nhất. Suốt hai mươi lăm năm hầu cận Thế Tôn, Ngài đã luôn cần mẫn và tận tụy, đến mức tấm lòng của Tôn giả hướng về Thế Tôn gần như chiếm trọn tâm trí mọi lúc, vì vậy mà công phu tu tập của bản thân Ngài phải nhường sau. Thể Tôn cũng có lần tiết lộ công hạnh đặc biệt của một vị Thị giả là sẽ phải chứng A La Hán sau khi các Đức Phật đã nhập diệt. Đứng trước tình huống ấy, Trưởng lão Đại Ca Diếp ra điều kiện rằng: “Tôn giả A Nan phải chứng được A La Hán!”. Sau đó, Trưởng lão cùng các vị Tỳ kheo khác bay vào trong hang động trên núi Kỳ Xà Quật, dùng thần lực lấp cửa hang lại. Cả năm trăm vị ngồi nhập định bất động để chờ Tôn giả.
Đêm đó, Tôn giả A Nan nỗ lực ráo riết để tu tập. Ngài hết tinh tấn tọa thiền rồi lại đi kinh hành liên tục suốt đêm. Lòng thương kính với Thế Tôn cứ dạt dào dâng ngập tâm hồn không cho phép Tôn giả lơi lỏng bất kỳ một sát na nào. Đến rạng sáng, khi cơ thể đã quá mệt Ngài mới toan ngả lưng nằm nghỉ. Ngay khoảnh khắc vừa nghiêng mình, đầu chưa chạm tay gối, Tôn giả hoát nhiên bừng ngộ, hào quang trí tuệ sáng rực rỡ xóa tan màn đêm vô minh, Ngài đắc thành đạo quả A La Hán tối thượng.
Hôm sau, Tôn giả đĩnh đạc đi xuyên qua vách núi vào ngồi vị trí của mình trong hang động. Ngài trùng tuyên lại lời dạy của Thế Tôn, kể lại chi tiết nguyên do, tình huống của các bài Kinh ấy trong suốt mấy chục năm không sót một từ, dõng dạc và trọn vẹn ý nghĩa. Khung cảnh lúc bấy giờ thật thiêng liêng và xúc động, giọng của Ngài vang rền trong hang động, vang mãi...
__________________
Hoang Nguyen gởi
