Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 
TÔN GIẢ ĐÀ LA BÀ MA LA ĐỆ NHẤT TỔ CHỨC CƯ TRÚ CHO TĂNG ĐOÀN


Ví như đốt thanh sắt
Lửa lóe sáng rực rỡ
Sức nóng dần dần mất
Cũng thế sự giải thoát
Vượt bùn lầy phiền não
Các dòng đã dứt sạch
Chóng đắc dấu bất động
Nhập Vô dư Niết Bàn.

I. SỰ XUẤT HIỆN DIỆU KỲ

Thuở ấy, dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya), tại xứ Mạt La (Malla) có thành A Dật Di (Anupiya) phồn thịnh, người dân các nơi đổ về giao thương tấp nập.

Một ngày, trong thành có người phụ nữ đang mang thai bỗng không may qua đời. Thật đau lòng, bà ra đi khi ngày sinh đã gần đến. Theo tục lệ, người ta đưa bà lên giàn hỏa thiêu. Khu nghĩa địa là một bãi đất trống phía ngoại thành, chính giữa dựng lên một dàn gỗ được quấn bằng những dải vải trắng, thềm nằm được kết bằng cỏ khô có tẩm nước hương. Gia quyến và người đưa tiễn đến dự rất đông. Thân thể người phụ nữ được đặt lên một vòng hoa tươi. Những cánh hoa nhè nhẹ phất phơ trước gió. Khi cây đuốc được ném vào, từng làn khói trắng mờ bay lên, ánh lửa lớn dần, khí nóng lan tỏa ra xung quanh. Đột nhiên, một người đứng gần đó tròn mắt, chỉ tay về phía giàn thiêu, la lớn:

Kìa! Nhìn phần bụng của bà ấy kìa?

Mọi người sửng sốt. Từ thân thể người mẹ, giữa ngọn lửa bập bùng tứ phía, hài nhi thoát ra ngoài một cách kỳ diệu, rơi xuống đám cỏ kế bên. Sau giây phút ngạc nhiên, mọi người vội chạy ngay đến. Bà ngoại của hài nhi nhanh tay quấn khăn rồi ẵm bồng cháu. Trong vòng tay của bà, hài nhi có gương mặt khôi ngô ngước lên nhìn mọi người. Vừa thoát khỏi vòng lửa trên giàn thiêu nhưng hài nhi không hề sợ hãi, ánh mắt vẫn bình yên hiền hòa. Thân quyến vây xung quanh, vừa mừng lại vừa thương, ngắm nhìn hài nhi mà không ngăn nổi dòng lệ.

Bà ngoại đặt tên cho Ngài là Đà La Bà Ma La (Dabba Mallaputta). Trong đó, “Đà La” nghĩa là tên một loại cỏ, ngụ ý để nhớ về kỷ niệm đặc biệt mà Ngài đã đến với thế gian.

Ngài Đà La Bà Ma La lớn lên trong tình yêu thương và chăm sóc của ngoại. Cứ như thế, hai bà cháu nương tựa nhau trải qua những tháng năm êm đềm. Bà là dòng suối mát chăm nom cho Ngài từ tấm bé. Ngài là niềm hạnh phúc khi bà tuổi đã xế chiều.


III. ĐỆ NHẤT TỔ CHỨC CƯ TRÚ CHO TĂNG ĐOÀN

Sau thời gian cư ngụ tại xứ Mạt La, Đức Thế Tôn quyết định du hành đến thành Vương Xá (Rajagaha). Sa di Đà La Bà Ma La cũng theo bước chân Tăng đoàn đến ở tại tinh xá Trúc Lâm (Veluvana). Tinh xá thật yên bình. Hồ nước trong ánh nắng hiện lên màu ngọc bích, êm đềm uốn lượn quanh lối đi. Ngay hôm đó, dưới bóng mát của một khóm trúc xanh mướt vắng lặng, sa di Đà La Bà Ma La ngồi lắng tâm trong thiền định. Ngài quán sát nhân duyên và thấy hạnh nguyện từ nhiều kiếp của mình. Vì thế, sau khi xả thiền, Ngài liền đến hương thất của Đức Thế Tôn thưa hỏi:

Kính bạch Đức Thế Tôn, từ nhiều kiếp xưa, con đã phát nguyện được phục vụ Chư Tăng trong việc sắp xếp liêu phòng và phân phát vật thực. Nay nhân duyên đã trọn đủ, con kính xin Thế Tôn cho phép con được tiếp tục thực hiện hạnh nguyện của mình.

Đức Thế Tôn từ ái nhìn vị sa di A La Hán đang quỳ gối chắp tay thành kính. Tuy nhỏ tuổi nhưng Ngài Đà La Bà Ma La thật xuất chúng. Ngài đã đạt đến mục đích cao thượng tột cùng của đời sống Tỳ kheo. Vì vậy, Thế Tôn chấp nhận lời thỉnh cầu của Ngài. Hơn thế, Người còn cho phép Ngài Đà La Bà Ma La được thọ giới Tỳ kheo dù chưa đủ tuổi hạ.

Thấm thoát đã bốn năm trôi qua kể từ khi ĐứcThế Tôn đồng ý cho Ngài tổ chức an trú và phân phối vật thực. Lúc nào Ngài cũng trông coi cẩn thận, đảm bảo vật thực cho chư vị Tỳ kheo trong suốt mười tám khu tinh xá. Tôn giả Đà La Bà Ma La luôn luôn khéo léo phân chia vật phẩm đồng đều cho Tăng đoàn. Ngài còn hoàn thiện lịch thọ thực cho mỗi ngày vô cùng chi tiết và cẩn thận. Mỗi vị Tỳ kheo thường sẽ được phân chia đi theo nhóm và thọ thực tại khu vực riêng. Có vị thọ trai tại tinh xá, có vị tới nhà gia chủ, có vị sẽ đi khất thực trong các con phố hay làng quê. Nhờ vậy, các vị Tỳ kheo vừa đảm bảo thời gian tu tập vừa có thể đi đến nhiều nơi để gieo duyên với chúng sinh. Đồng thời, dân chúng có cũng nhiều cơ hội để cúng dường lên tất cả các vị Tôn giả trong Tăng đoàn. Chính vì thế mà Tôn giả Đà La Bà Ma La nổi danh khắp vùng. Mọi người đều hết lời ngợi ca về sự chu toàn và trách nhiệm của Ngài.

Trúc Lâm khi ấy là một khu tinh xá rộng lớn gần thành Vương Xá. Chư Tăng cư ngụ tại nơi đây rất đông, có khi lên tới hàng ngàn vị. Mỗi ngày đều có khách đến và đi, các đoàn khách Tăng, khách Ni, khách cư sĩ, quan tướng, thương nhân... Tôn giả Đà La Bà Ma La luôn tinh tế nhận thấy những mong muốn của từng vị về nơi cư trú. Những lúc như thế, Ngài thường xuyên có những kế hoạch sắp xếp chu đáo, làm hài lòng tất cả mọi người.

Có lần, một đoàn tân Tỳ kheo tới tinh xá để học hỏi và tu tập, họ đến từ nhiều vùng miền trên đất nước. Sau mỗi thời khóa chung cùng đại chúng, các vị mong muốn có không gian riêng để thúc liễm tu hành nhiều hơn. Khi ấy, Ngài Đà La Bà Ma La đã nhanh chóng bố trí từng khu vực phù hợp cho các vị, bởi cơ duyên của mỗi vị là khác nhau. Ví dụ, các vị chuyên tu thiền định sẽ ở cùng thiền phòng. Các vị pháp sư sẽ ở chung với nhau để tiện trao đổi và thưa học giáo Pháp. Chư vị Tỳ kheo yêu mến đời sống khổ hạnh sẽ muốn tĩnh tu trong rừng sâu hay dưới những cội cây...

Bên cạnh đó, Ngài còn tận tâm chuẩn bị những vật dụng cho từng khu vực. Ngài phân chia đầy đủ tất cả các đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt. Dù lớn dù nhỏ đều thật gọn gàng tươm tất. Từ lều bạt, mền, gối, củi lửa đến khu vệ sinh, phòng tắm, nước dùng... mọi thứ không bao giờ thiếu sót. Vị khách nào cũng cảm nhận được tấm lòng tận tụy của Tôn giả. Dù là công việc chuẩn bị hay dọn dẹp, Ngài đều thực hiện rất nhanh chóng và sạch sẽ bởi đoàn khách tiếp theo có thể viếng thăm bất cứ lúc nào. Nhiều khi, tinh xá Trúc Lâm không còn đủ chỗ, Ngài liền sắp đặt khu nghỉ ở những địa điểm bên ngoài. Có khi là tại sườn núi Thôn Tiên (Isigili), sườn núi Phú Trọng (Vebhara), hang Thất Diệp (Sattapanna), có lúc tại rừng Sita, vườn xoài Jivaka, vườn nai Maddakucchi... Nhờ vậy, thập phương Tăng chúng ai cũng hài lòng và dành thời gian chuyên tâm tu hành.

Nhiều đêm, có những vị Tỳ kheo ghé qua tinh xá khi trời đã muộn, Tôn giả thường sẽ dẫn các vị đến nơi nghỉ ở xa. Đôi lúc Ngài sẽ sử dụng thần thông đặc biệt, đó là thắp sáng ngón tay, để soi tỏ con đường cho đoàn khách. Thần thông kỳ lạ này khiến cho nhiều vị cảm thấy vui thích. Các vị hay truyền tai nhau về vị Tôn giả sắp xếp liêu phòng trong Tăng chúng, vị Thánh Tăng có ngón tay phát ra ánh sáng dìu dịu mỗi khi dẫn lối cho Chư Tỳ kheo đi trong đêm. Cũng vì lý do ấy mà rất nhiều vị tu sĩ tò mò về thần thông của Ngài.

Vào một ngày nọ, lựa khi trời đã về khuya, một nhóm Chư Tỳ kheo bộ hành tới cổng tinh xá. Khi đến đây, các vị đều mang trong mình niềm mong ước được một lần chiêm ngưỡng thần thông kỳ diệu nơi ngón tay của Tôn giả Đà La Bà Ma La. Một vị Tỳ kheo đi giữa thay mặt đoàn, chắp tay bạch rằng:

- Kính thưa Trưởng lão, xin Trưởng lão hãy cho chúng con một chỗ trú ngụ bên ngoài tinh xá ạ.

- Vậy các hiền giả mong muốn nghỉ ở đâu? Tôi sẽ sắp xếp nơi nghỉ ngơi theo ý của Chư vị.

- Thưa Trưởng lão, chúng con ước mong được ở tại đỉnh núi Linh Thứu (Gijihakuta). Kính mong Trưởng lão sắp xếp cho chúng con.

- Vậy Chư vị hãy bước theo tôi.

Đường dẫn lên núi Linh Thứu đầy trắc trở. Con đường dài khúc khuỷu và mấp mô toàn sỏi đá. Có những đoạn phải leo lên những nấc thang xoắn ốc cheo leo. Có khi băng qua những cung đường hẹp, cây cối um tùm hai bên, những cành cây sà xuống gần sát đất, muốn qua phải khom lưng mới đi được. Khi màn đêm buông xuống, cảnh vật chìm trong bóng tối. Hành trình lên tới đỉnh núi càng thêm hiểm nguy.

Thế rồi, Tôn giả đưa cao ngón tay. Bỗng nhiên, từ ngón tay Ngài tỏa ra một vầng sáng dịu dàng. Ngài dẫn các vị khách Tăng rẽ bóng tối bước đi. Lạ lùng làm sao, con đường gồ ghề trở nên êm đềm và rộng rãi. Chỉ trong vài chục bước chân, đỉnh Linh Thứu đã hiện ra trước mặt. Các vị bước vào một hang động rộng mênh mông, trong đó mọi thứ đều sáng tỏ như có ánh trăng tỏa xuống. Chư vị Tỳ kheo hết sức ngạc nhiên. Các vị càng bước vào sâu bên trong thì càng cảm nhận được sự ân cần chu đáo của Tôn giả Đà La Bà Ma La. Những giường gỗ, giường đá đã được kê thành từng hàng ngay ngắn, đồ dùng sinh hoạt của từng vị nằm ngăn nắp trên mặt bàn cạnh mỗi chiếc giường...

Trong một dịp hội họp Chư Tăng, Đức Thế Tôn đã cất lời tán thán

Này hội chúng, trong các đệ tử Tỳ kheo của Như Lai về hạnh sắp đặt trú xứ, đệ nhất là Đà La Bà Ma La.

Trích "Thánh Độ Mạng TÔN GIẢ ĐÀ LA BÀ MA LA (DABBA MALLAPUTTA ).


__________________


Hoang Nguyen gởi