Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 
TÔN GIẢ LẠI TRA HÒA LA ĐỆ NHẤT XUẤT GIA VÌ LÒNG TIN


II. XUẤT GIA

Thời gian trôi qua thật nhanh, xứ Kuru vẫn thanh bình và sung túc. Các tán cây đã vươn rộng hơn, xòe bóng che rợp hai bên đường. Không khí hôm nay thật khác lạ. Dường như cả thành phố Thullakotthita đều đang mong đợi một giờ phút thiêng liêng sắp tới. Trên nền trời, từng đàn chim tung cánh bay hướng về phía trung tâm. Người dân ăn mặc đẹp đẽ, trang nghiêm. Họ xếp thành hàng dài, trên tay cầm sẵn những giỏ hoa tươi tắn. Người bán hàng cũng háo hức khẩn trương dọn dẹp thật nhanh. Cả thành phố như rộn lên. Họ vui mừng kể cho nhau rằng: Bậc Đạo Sư xuất thân từ dòng dõi Thích Ca cùng Tăng đoàn năm trăm vị Tỳ Kheo du hóa đến xứ này, nay đã đến Thullakotthita. Người là Đức Phật, là Đấng Toàn Giác, đã giải thoát hoàn toàn khỏi luân hồi sinh tử. Người là vị Thầy của cả trời người. Người đến với chúng sinh bằng trí tuệ và lòng từ bi bao la vô tận, phủ trùm pháp giới. Quần chúng đông đảo kết thành từng nhóm, vừa đi vừa hô vang lên:

- Đức Phật là phúc lành đẹp ngời nhất trên thế gian này. Người sẽ ban những lời kinh tràn đầy chân lý. Hãy cùng nhau đến để chiêm ngưỡng và đảnh lễ Người.

Hội chúng hàng nghìn người đông đủ xếp thành từng hàng, chắp tay hướng tâm thành kính để đón chờ thời khắc thiêng liêng ấy. Đức Phật bước đi nhẹ nhàng, trầm tĩnh. Gương mặt Người hiền hậu và ánh mắt Người từ ái. Từ nơi Người tỏa ra vầng hào quang sáng ngời, rực rỡ hơn nghìn ánh mặt trời. Người an tọa trên pháp tòa, chiếc y ca sa nâu giản dị khẽ lay theo từng cử chỉ. Tăng đoàn cũng thật trang nghiêm thanh tịnh, từng oai nghi của các vị Tỳ kheo đều toát lên một niềm an lạc và thánh thiện vô cùng.

Ngài Lại Tra Hòa La háo hức tham gia cùng mọi người. Ngay lúc này đây, những hình dung của Ngài về Thế Tôn từ thời thơ ấu chợt ùa về trong tâm trí khiến Ngài ngập tràn xúc động. Đấng Giác Ngộ trước đây chính là Thái Tử Tất Đạt Đa, Thân Phụ của Hoàng tôn La Hầu La. Người cao quý và chói ngời hơn mọi điều trên đời. Ngài và tất cả hội chúng cùng quỳ xuống, năm vóc sát đất đảnh lễ Thế Tôn và chư Tăng.

Mọi người ngồi lặng im. Không khí lắng đọng trong sự nghiêm trang, thanh tịnh. Rồi Thế Tôn bắt đầu thuyết Pháp.

Luật Nhân Quả là một nguyên lý tự nhiên công bằng tuyệt đối của vũ trụ. Mỗi chúng sinh theo duyên nghiệp của mình mà đi vào các cõi. Ai làm các nghiệp lành, giữ gìn giới hạnh, từ bi giúp đỡ sẽ sinh vào nơi hạnh phúc như cõi trời hoặc cõi người sang trọng. Ai làm các nghiệp xấu như giết hại, trộm cắp, tà dâm, ác ngữ, thì sinh vào nơi đau khổ như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Người nói rõ bản chất của thế gian là đau khổ, nỗi khổ của chúng sinh ít hay nhiều tùy theo cõi giới, tùy theo duyên nghiệp, nhưng tất cả đều là đau khổ.

Chỉ có một hướng đi cao thượng giúp chúng sinh vượt thoát mọi khổ đau của sinh tử luân hồi. Một hướng đi ngập tràn từ bi, trí tuệ. Đó chính là hành trì trong Pháp và Luật của Như Lai.

Những điều Thế Tôn giảng dạy chưa một vị nào trước đây có thể tuyên thuyết được. Sau bài Pháp, Ngài Lại Tra Hòa La chiêm nghiệm lại cuộc đời mình và những người xung quanh. Ngài rúng động trước ánh sáng nhiệm màu của chân lý. Chúng sinh say mê bám chấp vào những gì mình đang có. Lòng ham muốn ái dục, tiền tài, danh vọng... là không có điểm dừng, không có sự thỏa mãn. Thế nhưng, tất cả đều là vô thường, đều biến đổi chẳng theo ý muốn của chúng sinh. Và khi những điều bất như ý, nghèo đói, bệnh tật, nạn tai, phiền não... bất ngờ ập đến, khiến chúng sinh chìm trong đau khổ. Càng muốn trốn tránh đau khổ, chúng sinh lại gây tạo thêm vô số ác nghiệp và rồi lại vướng vào khổ đau.

Sau buổi thuyết Pháp, các Bà la môn, gia chủ tín thọ giáo Pháp và đảnh lễ Thế Tôn ra về. Ngài Lại Tra Hòa La lập tức đến trước pháp tòa, thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn và bạch rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn, sau khi nghe Thế Tôn thuyết Pháp, con đã thấm thía nỗi khổ đau của kiếp người. Đời sống gia đình đầy những ràng buộc, giam hãm chúng sinh trong những điều tầm thường của thế tục. Chỉ có xuất gia trong giáo Pháp của Thế Tôn mới có thể sống một đời hoàn toàn trong sạch, trắng trong như vỏ ốc, phạm hạnh viên mãn.

Bạch Đức Thế Tôn, kính xin Người cho phép con được cạo bỏ râu tóc, đắp y áo cà sa. Từ nay, con xin từ bỏ gia đình, sống không gia đình để tu hành trong Pháp và Luật của Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, xin cho con được xuất gia làm đệ tử của Người.

Thế Tôn từ ái nhìn Ngài, dịu dàng cất lời hỏi:

Này Lại Tra Hòa La, con đã được cha mẹ bằng lòng cho xuất gia chưa ?

Bạch Thế Tôn, con chưa được cha mẹ bằng lòng cho xuất gia ạ.

Này Lại Tra Hòa La, con phải có được sự bằng lòng của cha mẹ mới có thể xuất gia trong Tăng đoàn của Như Lai

Ngài Lại Tra Hòa La vẫn quỳ trước Thế Tôn. Hình ảnh của cha mẹ thoáng hiện trong tâm trí. Ngài là người con duy nhất mà cha mẹ hết mực thương yêu, sẽ thừa kế cả gia thế uy quyền tột bậc. Chắc chắn hai người sẽ không cho phép Ngài xuất gia. Thế nhưng, khi ngước nhìn lên Thế Tôn, niềm bình an nơi Người tỏa ra đã làm Ngài thêm vững lòng. Ngay trong khoảnh khắc đó, Ngài xác quyết chí nguyện của mình.

Bạch Thế Tôn, con tin tuyệt đối vào con đường mà Thế Tôn đã chỉ dạy, con sẽ làm mọi điều cần thiết để được cha mẹ bằng lòng.

Ngài đảnh lễ Thế Tôn, tay chắp hướng về Người rồi cứ thế bước lui ra.

Vừa về tới nhà, Ngài đến bên cha mẹ lòng đầy kính trọng, nhẹ nhàng thưa:

Thưa cha mẹ, hôm nay con đã gặp Đấng Giác Ngộ. Người đã dạy cho con thấy được bản chất đau khổ của cuộc đời. Thưa cha mẹ, từ giờ phút này đối với con chỉ có được sống một đời tu hành thanh tịnh mới là hạnh phúc chân thật. Con cúi xin cha mẹ ưng thuận để con được xuất gia trở thành đệ tử của Người.

Cha mẹ Ngài ngỡ ngàng. Họ vừa lo sợ, vừa thương con nên cương quyết:

Này Lại Tra Hòa La con ơi, đừng nói như vậy. Cha mẹ đã thao thức bao nhiêu đêm để cầu nguyện mặt trời, mặt trăng, chư Thiên mới có thể có được con. Cha mẹ đã chăm lo cho con từng miếng ăn giấc ngủ, đã quặn lòng mỗi lúc con bị ốm bệnh và đã hạnh phúc biết nhường nào khi được trông thấy con khôn lớn từng ngày. Con ơi, con là tất cả niềm thương yêu, con là báu vật vô giá của cha mẹ trên cõi đời này. Này Lại Tra Hòa La, con nhìn xung quanh mình xem. Con là một trong những thanh niên ưu tú nhất trong xứ sở này. Gia đình ta có đầy đủ uy quyền và sự giàu sang chỉ sau đức vua Kuru. Tất cả mọi người đều thương mến con. Con hãy ở lại gia đình và con sẽ được hưởng mọi điều sung sướng, hạnh phúc nhất trên cõi đời này. Con đừng bỏ chúng ta mà đi như vậy.

Ngài Lại Tra Hòa La lặng im nhìn cha mẹ với ánh mắt thương yêu nhưng đầy cương quyết. Ngài quỳ xuống xin cha mẹ ba lần. Và cả ba lần đều chỉ nhận được những cái lắc đầu từ chối:

Này Lại Tra Hòa La, con là con trai duy nhất của chúng ta, con không thể đi xuất gia được. Cha mẹ nhất định không đồng ý.

Thưa cha mẹ, con không còn cách nào khác. Từ nay con sẽ không đứng dậy, không uống, không ăn, cho đến khi nào cha mẹ ưng thuận cho con xuất gia mới thôi. – Ngài đáp lời. Giọng Ngài nhỏ nhẹ và khiêm nhu nhưng vô cùng dứt khoát.

Và từ đó Ngài im lặng. Một ngày không ăn, hai ngày, ba ngày, cho đến một tuần không ăn, không uống... Cha mẹ Ngài hết sức lo lắng. Họ làm những thức ăn ngon, nước uống bổ dưỡng đem đến. Họ khóc lóc, nài nỉ, có lúc trách mắng, lấy mọi lý lẽ để thuyết phục Ngài nhưng vô ích. Cuối cùng, sau nhiều ngày cố gắng nhưng không có hiệu quả, cha mẹ đành nhờ những người bạn thân thiết đến thuyết phục Ngài. Từ bên ngoài khung cửa, họ xót xa khi thấy Ngài xanh xao gầy guộc, môi khô nứt ra, nước da sạm lại. Thế nhưng, nhìn vào đôi mắt, họ vẫn thấy sáng ngời lên một niềm tin mạnh mẽ. Giây phút đó, họ biết rằng tâm trí và trái tim của Ngài đã không còn thuộc về nơi này nữa. Tăng đoàn của Đức Thế Tôn mới chính là cuộc sống của Ngài.

Cha mẹ liền bước vào, ôm Ngài khóc lớn. Không còn cách nào khác, họ đành đồng ý cho phép Ngài xuất gia. Mẹ Ngài vừa khóc vừa lau nước mắt:

Lại Tra Hòa La con ơi, con hãy hứa rằng sau khi được làm Sa môn, con hãy quay trở về thăm cha mẹ.

Ánh mắt Ngài bao dung nhìn cha mẹ. Ngài mỉm cười nhẹ nhàng đáp rằng:

Thưa cha mẹ, con cảm ơn cha mẹ. Con sẽ không chết, con sẽ sống. Con sẽ tinh tấn tu hành và tương lai sẽ trở về thăm lại cha mẹ.

Ngài ngồi dậy, niềm vui xen lẫn sự xúc động. Ngài quỳ xuống lạy cha mẹ. Sau đó Ngài tạm biệt quê hương, rồi ngay lập tức lên đường đến tinh xá thưa lại mọi chuyện với Đức Thế Tôn. Thế Tôn chấp nhận Ngài vào Tăng đoàn. Đời sống xuất gia mẫu mực của Tôn giả bắt đầu từ giây phút ấy...


IV. TRỞ VỀ QUÊ HƯƠNG GIÁO HÓA

Mười năm sau, khi đã chứng được đạo quả tối thượng, Tôn giả trở về thành phố Thullakotthita để thăm cha mẹ như lời đã hứa trước khi xuất gia. Ngài ôm bát khất thực lần lượt từng nhà trong thành phố. Vào một sáng sớm, Tôn giả đứng trước cửa ngôi nhà năm xưa của gia đình. Ngài lặng lẽ chờ đợi nhưng không ai đón tiếp. Cha mẹ Ngài vẫn phiền lòng vì Ngài đi xuất gia nên sinh tâm oán trách, thường không tiếp đón các vị Sa môn. Cuối cùng, một người tỳ nữ trong khi đổ bát cháo bỏ đi từ hôm trước vào bát Tôn giả đã nhận ra Ngài. Cô liền tức tốc báo cho ông bà gia chủ.

Cha mẹ Ngài vội bước tới, thấy con của mình đang ngồi dựa vào một bức tường và thọ thực bát cháo đã thiu, họ nghẹn ngào không nói nên lời. Vì Tôn giả đã thọ thực nên họ mời Ngài đến nhà vào hôm sau. Rồi họ vội vàng chuẩn bị rất nhiều cao lương mỹ vị, vàng. bạc châu báu... để chờ đón Ngài. Hôm sau, khi Tôn giả đã thọ thực xong, cha mẹ Ngài dùng rất nhiều tiền vàng cùng nữ sắc để mời gọi, khuyên Ngài hãy từ bỏ đời sống xuất gia. Dù vậy, Ngài bình thản khước từ mọi cám dỗ. Người cha biết chẳng thể níu kéo Ngài bằng tiền bạc hay sắc đẹp, nhưng vì quá thương nhớ con, ông liền cho người đóng bảy cánh cửa, nhốt Ngài trong nhà.

Thấy vậy, Tôn giả đành phải thi triển thần thông. Ngài bay vượt lên cao rồi bình thản bước đi trên hư không. Ánh sáng tỏa ra chói lòa, những bức tường kiên cố dường như trở thành một lớp ảo ảnh mà Ngài có thể đi xuyên qua dễ dàng. Cảnh tượng quá đỗi huy hoàng và kỳ diệu. Tất cả mọi người ngay lúc đó đều quỳ xuống đảnh lễ Ngài và xin sám hối. Câu chuyện về thần thông vi diệu của Tôn giả nhanh chóng lan truyền khắp xứ. Lúc đó, Ngài đang đến an cư trong vườn Lộc Uyển của vua Câu Liệp (Korabya) xứ Kuru. Đức vua và Ngài trước kia là chỗ thân tình, dù tuổi tác hai người cách xa nhưng vì mến tài người thanh niên trẻ tuổi nên vua hay cho gọi Ngài vào cung trò chuyện, cùng nhau đàm luận về nhiều lĩnh vực. Khi biết được tin, Đức vua lập tức đến thăm hỏi và tham vấn Ngài:

Thưa Tôn giả, Trẫm rất mừng vì được gặp lại Tôn giả. Hơn mười năm nay từ khi Ngài xuất gia, Trẫm vẫn thắc mắc trong lòng về sự từ bỏ thế tục và niềm tin của Ngài. Nay xin được Tôn giả giải đáp.

Dưới bóng của một tàng cây, Tôn giả Lại Tra Hòa La đang ngồi tĩnh tọa. Vẫn trong tư thế kiết già, Ngài dịu dàng nói:

Này Đức vua, xin Ngài cứ hỏi.

Thưa Tôn giả, Trẫm nghĩ rằng cuộc sống Sa môn là một cuộc sống rất đơn giản và chỉ dành cho những người yếm thế trên đời. Thưa Tôn giả, đó là người già, người bệnh, người cô độc và kẻ bần cùng. Những người này, họ chẳng thể nào vươn ra cuộc đời để kiếm tìm tài sản, địa vị và danh vọng nữa. Họ cũng không còn cơ hội mà tận hưởng những lạc thú trên thế gian. Thưa Tôn giả, khi Ngài xuất gia làm Sa môn, Trẫm đã vô cùng ngỡ ngàng. Khi đó Ngài đang độ tuổi thanh xuân, sức khỏe cường tráng, gia đình thân quyến đông đủ hạnh phúc còn danh vọng và tiền tài thì bậc nhất trong xứ sở. Cả một khung trời tươi đẹp đang vẫy gọi, cớ sao Ngài lại từ bỏ tất cả để dấn thân vào một cuộc sống đơn sơ, không gia đình, hằng ngày với bình bát và khất thực?

Tôn giả Lại Tra Hòa La mỉm cười nhìn Đức vua, rồi Ngài từ tốn nói:

Này Đức vua, khi đương thanh xuân, Ngài có sức mạnh và võ nghệ cao cường. Ngài cưỡi trên những con voi, trên lưng ngựa mà xông pha chiến trận. Ngài thiện nghệ về cung và kiếm. Nhưng giờ đây, khi đã gần tám mươi, Ngài còn có thể được như vậy không?

Thưa Tôn giả, không ạ. Giờ đây cơ thể không còn nghe theo ý muốn của Trẫm. Khi Trẫm nhấc chân bước tới thì cũng đã loạng choạng phải có người đỡ.

Này Đức vua, ta biết Ngài có rất đông gia quyến, cận thần và cả hàng trăm ngàn thuộc hạ. Nhưng lúc Ngài bị bệnh, những người đó có thể chịu thay Ngài không?

Thưa Tôn giả, không ạ. Trẫm bị bệnh phong kinh niên. Mỗi khi tái phát, cơn bệnh hành hạ khiến những khớp xương tấy lên, gân mạch co rút, toàn thân vô cùng đau nhức. Trẫm trằn trọc cả đêm, chỉ ước mong có ai đó chia sẻ bớt cơn đau nhưng không thể.

Này Đức vua, bây giờ Ngài đang được hưởng thụ những tài sản, danh vọng và lạc thú. Nhưng khi chết đi, Ngài có mang theo được hay không hay phải để lại cho người khác?

Thưa Tôn giả, không ạ. Khi chết đi, Trẫm không thể mang theo bất cứ điều gì ngoài nghiệp của mình.

Này Đức vua, hiện giờ Ngài đang trị vì vương quốc Kuru phồn thịnh. Đất nước của Ngài vô cùng trù phú và thanh bình, dân cư hiền lành, những tài nguyên bạc vàng không kể hết. Thế nhưng, nếu có người đến hiến kế giúp Ngài đánh chiếm thêm một vương quốc khác như thế, Ngài có thực hiện không?

Thưa Tôn giả, có ạ. Trẫm sẽ đánh chiếm và trị vì thêm đất nước đó.

Sau khi trả lời tất cả các câu hỏi, dường như Đức vua đã mềm lòng. Giọng của Đức vua trầm lại và dịu dần. Khi đó, Tôn giả cất lời:

Này Đức vua, Đức Thế Tôn thường dạy rằng trên đời có bốn việc cần phải biết rõ. Này Đức vua, thanh xuân chẳng thể bền lâu, tuổi già đang lấn chiếm từng giờ từng khắc. Ai rồi cũng sẽ phải bệnh tật và đối mặt với cái chết. Không ai chịu bệnh thay ta được, cũng không ai có thể chết thay. Chúng sinh say sưa kiếm tìm tài sản, địa vị, danh vọng, tình cảm... theo sự thôi thúc của bản năng và dục vọng. Vất vả, khổ sở để chiếm lấy bằng được. Lúc nào cũng thấy khao khát và thiếu thốn.

Thế nhưng, khi chết đâu có thể mang theo. Chúng sinh trở thành nô lệ cho tham ái.

Này Đức vua, thế gian này là vô thường, thân xác này là vô thường, chẳng có gì là ta, chẳng có gì là của ta. Đó là chân lý muôn đời. Này Đức vua, chính vì thấy rõ như vậy nên ta đã xuất gia với Đức Thế Tôn. Niềm tin của ta với Người, niềm tin với chánh Pháp mà Người tuyên giảng là tuyệt đối.

Khi Tôn giả vừa dứt lời, Đức vua Câu Liệp khi đó cũng bừng ngộ, chứng đắc Thánh quả Tu Đà Hoàn. Đức vua quỳ xuống xin quy y và thọ trì ngũ giới của người cư sĩ tại gia.

Trích "Thánh Độ Mệnh TÔN GIẢ LẠI TRA HÒA LA (RATTHAPALA )"

___________________


Hoang Nguyen gởi