Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 
TÔN GIẢ NHỊ THẬP ỨC NHĨ TINH TẤN ĐỆ NHẤT

Trong thời Đức Phật, có một vị Tôn giả sinh ra trong một gia đình giàu sang phú quý nhất vùng. Ngài là người con duy nhất nên được cha mẹ vô cùng thương yêu và bảo bọc. Đặc biệt, từ ngày còn thơ ấu đến khi trưởng thành chân Ngài chưa từng chạm đất. Mọi lối Ngài bước lên đều được trải thảm nhung trang trọng.

Thế nhưng, sau khi xuất gia trong Tăng đoàn của Đức Phật, chính đôi chân ấy đã dẫm lên chông gai để tạo nên một bài học quý giá cho người con Phật, bài học về hạnh tinh tấn phi thường trên con đường tu tập tâm linh giác ngộ.

Ngài là Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ (Sona Kolivisa), danh hiệu Đệ Nhất Tinh Tấn.

I. XUẤT THÂN

Nằm ở phía đông của vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha), đất nước Ương Già (Anga) nổi tiếng với thành Chiêm Ba (Campa) phồn thịnh. Thành phố này nằm bên cạnh dòng sông Hằng, là nơi tập trung buôn bán của nhiều thương nhân từ các nơi đổ về,

Tại Chiêm Ba, Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ (Sona Kolivisa) chào đời trong một gia đình đại trưởng giả giàu có. Kể từ khi phu nhân hoài thai Ngài, tài sản của gia đình tăng lên bất ngờ, của cải kiếm về ngày một dễ dàng. Gia đình họ có tám mươi xe chất đầy vàng ròng, một đàn voi quý, ba toà lâu đài khác nhau để ở theo mùa cùng hàng trăm gia nhân hầu cận.

Từ lúc lọt lòng, Ngài sở hữu tướng mạo sang trọng và quý phái lạ thường. Toàn thân lúc nào cũng có ánh sáng màu hoàng kim tỏa ra dịu nhẹ. Phụ thân vì vậy đặt tên cho Ngài là Sona. Sona có nghĩa là “vàng ròng”. Đôi bàn chân Ngài đầy đặn và hồng hào. Dưới gang bàn chân còn có một lớp lông tơ nhỏ, mềm mịn. Đặc biệt, đôi tai rất dày và đẹp. Khi vừa sinh ra, trong tai Ngài bỗng xuất hiện hai viên ngọc báu, giá trị lên đến hai mươi ức (hai triệu) tiền thời đó nên Ngài còn có danh xưng là Nhị Thập Ức Nhĩ.

Ngài sống trong sang quý tột bậc với điện các, sơn hào hải vị, nhung lụa... và tất cả tình thương mến của mọi người. Ngày Ngài chào đời, thành Chiêm Ba tổ chức lễ hội linh đình để đón mừng. Từ nhỏ tới lớn, cha mẹ Ngài lúc nào cũng bảo bọc con trai không rời mắt. Ngài bước tới đâu, người hầu cận đi theo trải thảm nhung lên các lối đi tới đó. Đôi bàn chân Ngài chưa từng một lần chạm đất.


III. TINH TẤN ĐỆ NHẤT

Sau khi xuất gia, thân quyến và bè bạn vẫn đến thăm hỏi Ngài thường xuyên. Họ cúng dường lên những món ăn thơm ngon, đồ dùng hảo hạng và chăm sóc Ngài không khác lúc còn tại gia được hưởng cuộc sống sang quý.
Vì thế, để quyết tâm tu hành, Tôn giả rời đến khu nghĩa địa trong rừng Sitavana, chuyên chú trong công phu thiền định.

Rừng Sitavana là một nơi vắng vẻ và ghê rợn. Những tử thi được đặt trơ giữa các khu đất trống, mặc cho sự tàn hoại của nắng, gió, sương đêm, rắn rết, côn trùng. Nền đất phủ dày lá khô và gai nhọn. Mùi xác thối rữa bốc lên nồng nặc.

Tôn giả cố gắng nhiếp tâm trong thiền định. Khi đó, vô số chướng ngại bắt đầu hiện ra. Từ sự căng cứng, khó chịu của thân thể đến những xao động trong nội tâm cứ bủa giăng không ngừng. Ngài chưa bao giờ phải dùng đồ ăn khất thực đạm bạc, mặc trên người loại vải thô ráp, mỏng manh chẳng che nổi giá lạnh của sương đêm, chẳng còn đâu nệm êm và những người phục vụ... Thế nhưng, càng khó khăn, Tôn giả lại càng quyết tâm:
“Từ nhỏ ta đã được bảo bọc quá nhiều, khiến cho thân thể này trở nên yếu mềm và nhạy cảm quá. Muốn đạt được đạo quả cao thượng, ta phải gắng sức hơn nữa, nỗ lực hơn nữa. Phải gồng mình mà vượt qua mọi khó khăn, chướng ngại.”

Nghĩ vậy, Ngài bắt đầu chuyên chú vào công phu vượt ngoài sức chịu đựng. Ngài tọa thiền đêm ngày không ngừng nghỉ. Ngài không nằm, không ngủ. Ngài tĩnh tọa giữa trời nắng bức, giữa mưa lạnh thấu xương, giữa đêm đen cô tịch và rùng rợn.

Chưa đạt được kết quả, Ngài chuyển sang đi kinh hành. Ngài cứ đi liên tục từ sáng sớm, tới chiều muộn, rồi thâu đêm quanh khu nghĩa địa phơi đầy xương trắng. Khi kiệt sức thì đứng tại chỗ để nghỉ chứ không nằm, không ngồi. Đôi chân ngày trước chỉ bước đi trên thảm nhung thì giờ dẫm lên toàn đá sỏi, gai góc. Chẳng mấy chốc, bàn chân phồng rộp lên rồi tứa máu. Theo mỗi bước đi, máu rỉ xuống đường và thấm đẫm vào đất. Cả đoạn đường kinh hành loang lổ những vệt máu đỏ chảy dài. Cơ thể Ngài tiều tụy và kiệt quệ. Hai hốc mắt hõm lại, sáng quắc. Chiếc y trên người cũng rách nát và dường như teo nhỏ lại.

Đến khi không chịu được nữa Ngài gục xuống, ngước mắt lên nhìn những tàng lá cao vút mà thở yếu ớt. Toàn thân Ngài run lên và tâm trí trở nên vô cùng căng thẳng, loạn động. Suốt những ngày qua, tâm trí Ngài lúc nào cũng phải căng ra để cố nhiếp tâm từng giờ từng phút mà chẳng có dấu hiệu tâm linh nào hiện ra cả. Bất chợt, một suy nghĩ thoáng hiện:

“Ta là một trong số các vị đệ tử của Thế Tôn có sự tinh tấn, nỗ lực dũng mãnh, đã dùng hết sức mình để vượt qua hết những chướng ngại của hoàn cảnh, tại sao tâm ta vẫn còn còn chấp thủ, không thể chứng đạt đạo quả?”

Ý niệm vừa nhen lên thì trước mắt Ngài bừng sáng, cảnh vật xung quanh bỗng nhòa đi. Đức Thế Tôn bước đến trong vầng hào quang chói ngời, Người cất lời trầm ấm:
Này Nhị Thập Ức Nhĩ, có phải trước kia con là một nhạc sư rất giỏi hay không?

Quá bất ngờ và xúc động, Ngài ngồi dậy rồi quỳ xuống đảnh lễ Thế Tôn:
Bạch Thế Tôn, đúng như vậy ạ. Trước kia, con có niềm yêu thích âm nhạc. Con vừa có thể soạn nhạc vừa có thể chơi được các loại nhạc cụ. Con biết làm sao để điều chỉnh nhịp điệu và cách kết hợp các nhạc cụ để tạo nên những bản nhạc hài hòa nhất.

Này Nhị Thập Ức Nhĩ, vậy ta hỏi con:
- Với một nhạc sư thì âm thanh của cây đàn rất quan trọng, liệu tiếng đàn có hay không nếu dây chùng?
- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn chùng thì tiếng đàn sẽ đục, không ngân vang được ạ.
- Vậy khi dây căng, tiếng đàn có hay chăng?
- Bạch Thế Tôn, khi dây căng thì tiếng đàn sẽ chói tai, làm người nghe rất khó chịu.

Này Nhị Thập Ức Nhĩ, vậy con hãy cho Như Lai biết, phải chỉnh như thế nào thì tiếng đàn mới hay?
- Bạch Thế Tôn, muốn cho âm thanh được hay nhất, dây đàn phải được căn chỉnh vừa phải, không quá chùng cũng không quá căng. Người chỉnh phải vô cùng khéo léo, phải lắng nghe âm phát ra một cách tinh tế để chỉnh độ căng thật chính xác và thích hợp. Khi đó, âm thanh phát ra vừa dịu êm lại vừa vang vọng. Âm thanh ấy làm đẹp lòng mọi người ạ.

Đức Thế Tôn mỉm cười, Người tiếp tục:
- Này Nhị Thập Ức Nhĩ, như dây đàn chỉ phát ra âm thanh tuyệt hảo khi được căn chỉnh vừa phải, cũng vậy, người tu hành chỉ đạt đến quả vị giải thoát khi bước đi trên con đường trung đạo. Người tu hành cần tránh hai cực đoan trong công phu tu tập. Một là cố gắng quá sức. Hai là biếng nhác, giải đãi. Cả hai điều đó đều không mang lại kết quả tốt đẹp. Cố gắng quá sức sẽ gây ra căng thẳng, mệt mỏi và não phiền. Lười biếng giải đãi thì chẳng bao giờ có thể tiến tu. Cũng như việc căn chỉnh dây đàn, người tu hành phải khéo léo để nhận ra khi nào cần cố gắng, khi nào cần nghỉ ngơi. Đó mới là sự tinh tấn chân thực trên đạo lộ giải thoát thiêng liêng.

Này Nhị Thập Ức Nhĩ, con hãy tiếp tục dũng mãnh nhưng hãy tinh tế điều hòa thân tâm. Hãy quán chiếu các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý để nắm rõ bản chất vô thường của chúng và lìa xa tham ái. Này Nhị Thập Ức Nhĩ, tất cả các pháp đều là vô thường, thân xác này là vô thường, chẳng có gì để nắm giữ. Con hãy tinh tấn lên!

Lắng nghe lời Pháp của Thế Tôn, gương mặt Ngài Nhị Thập Ức Nhĩ rạng rỡ lạ thường. Ngài xúc động đáp lời:
- Bạch Thế Tôn, giờ đây con đã hiểu. Con xin được lạy tạ ân đức của Người.

Tôn giả chắp hai tay rồi nhẹ nhàng cúi đầu sát đất với lòng tôn kính thiết tha. Khi Ngài ngẩng đầu lên, Đức Thế Tôn đã biến mất tự bao giờ, chỉ còn những vầng hào quang dịu nhẹ lưu lại.

Kể từ đó, Ngài thực hiện chánh tinh tấn không lơi lỏng. Chuyên chú giữ tâm không rời xa thân, nhưng nhẹ nhàng và vô cùng khéo léo. Ngài quán sát bản chất của các hình ảnh, âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm giác, dù là ưa thích hay chán ghét cũng đều là vô thường, chẳng tồn tại lâu cũng chẳng thể nắm bắt. Ngài tu tập niệm thân một cách sâu xa, thấy rõ ràng chính thân thể mình một ngày cũng sẽ chết, rồi sình trương, mục rữa, tan hoại như những tử thi ngoài kia.

Một đêm, trời gió nhẹ, khu rừng Sitavana chìm vào tĩnh lặng. Tôn giả Thập Nhị Ức Nhĩ nhập sâu dần vào các tầng bậc thiền định. Ngài diệt trừ tham ái, sân hận và xóa tan mọi chấp thủ. Đúng lúc ánh trăng vừa thoát khỏi mây mù, Tôn giả bừng ngộ, chứng đắc Thánh quả A La Hán, viên mãn giải thoát giác ngộ. Giây phút đó, niềm hạnh phúc an lạc tràn ngập khu rừng, vầng trăng vằng vặc tỏa ánh sáng khắp không gian.

Đức Thế Tôn đã xác chứng rằng:
Trong các vị đệ tử của Như Lai, Tỳ kheo Nhị Thập Ức Nhĩ xứng đáng danh hiệu Đệ Nhất Tinh Tấn.

Trích Thánh Độ Mạng TÔN GIẢ NHỊ THẬP ỨC NHĨ (SONA KOLIVISA)


______________________


Hoang Nguyen gởi