TÔN GIẢ NI MA HA BA XÀ BA ĐỀ
ĐỆ NHẤT TỔ NI ĐOÀN
II. TẤM LÒNG DI MẪU
Khi nhân duyên đã hội đủ, Hoàng hậu Maya hoài thai và đản sinh Thái Tử Tất Đạt Đa (Siddhartha). Ngày Thái Tử đến với trần gian, cả đất trời bừng rạng, nhân thiên hòa ca đón mừng một vị Thánh nhân xuất thế.
Thế nhưng, khi Thái Tử mới bảy ngày tuổi thì Hoàng hậu Maya qua đời. Đất nước Sakya trải qua những ngày đầy đau buồn, tiếc nhớ. Niềm thương yêu trong lòng dạt dào thôi thúc, Ngài Ba Xà Ba Đề quyết định ở lại thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) để chăm sóc cho Thái Tử. Không lâu sau, Đức vua tấn phong Ngài là Hoàng hậu. Kể từ đây, Hoàng hậu Ba Xà Ba Đề chính thức trở thành Di mẫu của Thái Tử Tất Đạt Đa, và Ngài thường được gọi là Kiều Đàm Di (Gotami), tức người di mẫu thuộc dòng họ Gotama.
Thái Tử lớn lên hạnh phúc trong vòng tay chăm sóc của vị Di mẫu. Hoàng hậu Ba Xà Ba Đề thương yêu Người hơn tất cả mọi điều trên thế gian. Từ những ngày đầu mới đản sinh, sữa mẹ không có, Hoàng hậu đích thân đi xin, chắt chiu từng giọt sữa để đem về nuôi nấng Thái Tử. Ngài chuẩn bị từng bữa ăn giấc ngủ và tự tay làm mọi việc dù hoàng cung có nhiều thị nữ. Cả ngày lẫn đêm, Ngài ở bên Thái Tử không rời xa nửa bước, vừa để chăm lo, vừa để bảo vệ cho Người an toàn tuyệt đối. Đã có lần kẻ xấu lẻn vào ám hại, một minh Hoàng hậu chiến đấu, lấy thân mình chở che, không để Thái Tử phải tổn hại dù chỉ một sợi tóc.
Thời gian trôi qua, Thái Tử Tất Đạt Đa ngày càng bộc lộ những phẩm chất cao quý. Người tài năng xuất chúng và cũng tràn đầy đức hạnh. Tình thương của Thái Tử dịu dàng tỏa đến tất cả mọi người xung quanh.
Mỗi ngày chứng kiến Thái Tử Tất Đạt Đa trưởng thành như thế, lòng Hoàng hậu Ba Xà Ba Đề ngập tràn hạnh phúc.
Trong nội cung, Hoàng hậu Ba Xà Ba Đề sắp xếp mọi việc từ lớn đến nhỏ. Ngài vô cùng tận tụy, chu đáo và tinh tế trong từng việc. Hoàng hậu thường quan tâm đến tất cả mọi người, không bỏ sót ai dù là một người thị nữ, cận vệ, người đánh xe... đến cả gia đình của họ. Đặc biệt, Ngài còn phụ giúp Đức vua Tịnh Phạn trong cả chuyện triều chính. Những ý kiến của Ngài lúc nào cũng chứa đựng một tấm lòng bao dung vô hạn. Một lần, Hoàng hậu thiết tha đề đạt việc gửi quà đến thân quyến những chiến sĩ đã hy sinh vì vương quốc. Lần khác, Ngài lại nghĩ cách làm sao để xóa nghèo, để người dân được ấm no. Rồi đến việc thuốc men chữa bệnh, lối sống trong xã hội, sự giao hảo giữa các quốc gia...
Có Hoàng hậu Ba Xà Ba Đề ở bên, Đức vua Tịnh Phạn cảm thấy yên tâm thêm rất nhiều. Hoàng hậu là vị Di mẫu đầy thương yêu với Thái Tử và cũng là một người mẹ vĩ đại của tất cả người dân vương quốc Sakya.
III. BƯỚC CHÂN NI GIỚI
Năm hai mươi chín tuổi, Thái Tử Tất Đạt Đa rời bỏ cung vàng điện ngọc, lên đường tìm chân lý cứu độ muôn sinh. Tuy trong lòng rất thương nhớ Thái Tử nhưng Đức bà Ba Xà Ba Đề thấu hiểu chí nguyện cao cả của Người. Từng bữa ăn khất thực, từng cung đường Người đi qua, từng phương pháp tu hành mà Người đã thực hiện, Đức bà đều lặng thầm theo dõi.
Sau đó Thái Tử đắc thành đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác, hiệu là Thích Ca Mâu Ni, trở thành bậc Đạo Sư được cả trời người cung kính. Một ngày đầu thu mát mẻ, Người trở về thăm Ca Tỳ La Vệ. Đức bà và cả hoàng tộc vỡ òa trong niềm hạnh phúc. Lần đó, trong một buổi thuyết Pháp của Đức Thế Tôn, Đức bà Ba Xà Ba Đề đã chứng đắc Thánh quả Dự Lưu.
Cũng chính lần trở về ấy, Đức vua Nan Đà (Nanda), Hoàng tôn La Hầu La (Rahula), Hoàng tử Ba Đề Thích Vương (Bhaddiya Kaligodhaputta), Hoàng tử A Nậu Lâu Đà (Anuruddha), Hoàng tử Kim Tỳ La (Kimbila), Hoàng tử Nan Đề (Nandiya)... cùng rất nhiều các vị vương tử trong hoàng tộc đều xuất gia theo Thế Tôn. Ít lâu sau, Đức vua Tịnh Phạn cũng băng hà. Hoàng cung trở nên trống vắng. Đức bà dù bận rộn cả ngày với vô số công việc nhưng trong lòng vẫn thấy trống trải khôn nguôi. Ngài nhớ lại lời vua Tịnh Phạn dặn dò: “Sau khi ta mất, mọi người nên cố gắng xin Thế Tôn xuất gia. Thế gian không phải là nơi ở lâu, hãy tinh tấn tu hành để giải thoát.” Lời dặn dò của Đức vua đã làm bừng lên chí nguyện từ lâu ấp ủ trong lòng Đức bà. Và Ngài biết rằng không thể chần chừ thêm nữa...
Ngay sau đó, Đức bà Ba Xà Ba Đề cùng Công nương Da Du Đà La (Yashodara) triệu tập tất cả thị nữ để thông báo một tin quan trọng:
- Này các em, ta và Công nương Da Du Đà La đã quyết định xuất gia theo chân Thế Tôn. Ta sẽ cho các em một số vàng dư dả đủ để sống cả đời. Các em có thể trở về với gia đình của mình.
Các thị nữ cùng òa lên khóc, quỳ gối cầu xin:
- Thưa Đức bà, thưa Công nương, ân tình của hai vị với chúng con sâu dày trĩu nặng. Kể từ lúc bước vào hoàng cung, lòng chúng con đã nguyện sẽ theo Người đến trọn đời. Xin Đức bà và Công nương cho chúng con cùng được xuất gia.
Khung cảnh thật xúc động. Đức bà và Công nương cảm động đồng ý, nắm tay đỡ các thị nữ dậy.
Hai hôm sau, đoàn nữ giới do Đức bà Ba Xà Ba Đề dẫn đầu khởi hành từ sáng sớm. Tại cổng thành, triều thần và hoàng tộc đứng nghiêm trang, chắp tay đưa tiễn. Dân chúng Ca Tỳ La Vệ kéo về lấp kín các con phố. Hai bên đường lớn, người dân đồng loạt quỳ gối. Đoàn người thong thả bước đi trong im lặng. Trang sức quý không còn, hài dép cũng bỏ lại, các vị chỉ mang theo chút hành trang đơn sơ, quấn trên người tấm y sari bằng vải thô giản dị. Dân chúng vẫn quỳ và hướng mắt dõi theo cho đến khi bóng của đoàn người khuất xa dần sau những rặng cây.
Hành trình từ Ca Tỳ La Vệ đến nơi Thế Tôn cùng chư Tăng đang an trú dài cả trăm dặm đường. Phải băng qua một nhánh sông Aciravati, qua những đồi núi trập trùng của xứ sở Mallas, rồi lại tiếp tục vượt qua con sông Gandak cuồn cuộn, men theo lưu vực của nó rồi mới đến được xứ Vesali. Tại đó, Đức Thế Tôn đang ngụ trong một ngôi nhà nhỏ bên triền đồi.
Đoàn người đi từ sáng sớm đến chiều tà thì nghỉ lại bên đường. Hôm sau lại tiếp tục như vậy, suốt hàng tuần trời. Những đôi chân quen bước nơi cung điện, nay phải chân trần đi băng rừng, lội suối trèo đèo, dẫm lên sỏi đá. Đôi bàn chân phồng rộp cả lên, vết này chưa lành đã chồng thêm vết khác. Đức bà Ba Xà Ba Đề đã có tuổi, toàn thân lại thêm tê nhức. Nhưng khi nghĩ tới khoảng cách với Thế Tôn ngày một gần, lòng Ngài lại phấn chấn hơn bao giờ hết. Ngày qua ngày, những gian nan càng hun đúc chí nguyện thêm mạnh mẽ bội phần.
Một buổi sáng tinh sương, Tôn giả A Nan (Ananda) dậy sớm để quét dọn hương thất của Thế Tôn. Chợt Ngài thấy Đức bà và Công nương từ xa. Hai vị đang dẫn theo một đoàn nữ giới rất đông đi tới. Những tấm sari khoác trên mình lấm lem trong đất bụi, những đôi bàn chân rướm máu, những thân thể hao gầy... Khi biết chuyện, Tôn giả cảm động vô cùng. Ngài hứa sẽ vào bạch với Thế Tôn thật rõ ràng, chi tiết.
Ngay lúc ấy, Tôn giả A Nan đi đến hương thất của Đức Thế Tôn. Lát sau, Ngài quay ra với ánh mắt đượm buồn.
- Kinh thưa Đức bà, Đức Thế Tôn không đồng ý nhận người nữ xuất gia. Thế Tôn bảo rằng người nữ cần phải được bảo vệ bởi cha, bởi anh, bởi chồng nên không thể trở thành Sa môn khất thực, sống không nhà được.
- Thưa Tôn giả A Nan, xin Tôn giả bạch với Thế Tôn rằng, chúng tôi không còn gì để quay lại Sakya cả. Những người chúng tôi thương yêu nhất đều đã gia nhập Tăng đoàn. Chúng tôi chỉ còn một con đường là đi theo Đức Thế Tôn đến cùng trời cuối đất.
Tôn giả A Nan lại tiếp tục đến hương thất. Và lần thứ hai trở ra, giọng Ngài lại càng chùng xuống.
- Kinh thưa Đức bà, Đức Thế Tôn lo lắng người nữ không thể sống đời xuất gia vì quá thiếu thốn. Sẽ không có những ngôi nhà kín đảo, những phòng vệ sinh tiện lợi, ngôi bếp hồng ấm áp. Người nữ ôm bát đi trên các nẻo đường sẽ thật nguy hiểm nếu ở những nơi vắng vẻ gặp phải trộm cướp, kẻ xấu... Thế Tổn không muốn Đức bà và những người nữ phải chịu vất vả như thế.
- Thưa Tôn giả A Nan, xin Tôn giả hãy bạch với Thế Tôn rằng chúng tôi thuộc dòng dõi Sát Đế Lợi, đều từng có rèn luyện tự vệ phòng thân. Chúng tôi sẽ chịu đựng được tất cả những điều đó. Nếu phải chết vì Thế Tôn, chúng tôi cũng xin nguyện lòng.
Lần thứ ba, Ngài A Nan trở ra, vẫn không có gì thay đổi.
- Kính thưa Đức bà, Đức Thế Tôn lo lắng tâm ý người nữ hay buồn giận thất thường, hay tủi thân và lo lẳng nhiều, sẽ rất khó khăn để hòa nhập khi đời sống xuất gia phải chung sống trong môi trường toàn người xa lạ, ít có tình cảm thân thiết.
- Thưa Tôn giả A Nan, xin hãy bạch với Thế Tôn là chúng tôi không còn một điều gì phải phân vân, luyến tiếc. Chúng tôi sẽ chấp nhận tất cả. Miễn sao được theo Thế Tôn hết cả cuộc đời mình.
Vậy là Thế Tôn không đồng ý để người nữ xuất gia. Lần thứ nhất, lần thứ hai, rồi lần thứ ba cũng đều như vậy. Mỗi lần Ngài A Nan báo tin, là một lần thêm những giọt nước mắt lăn dài trên gò má đoàn người. Nước mắt nhòa cả trên gương mặt họ. Chỉ có Đức bà vẫn luôn kiên định. Ngài hướng về hương thất nhỏ nơi Thế Tôn đang ngự, chắp tay cầu nguyện.
Nhìn thấy cảnh đó, Tôn giả A Nan vô cùng xúc động. Tôn giả lại quay vào bạch Thế Tôn lần nữa. Lần này Tôn giả không quay trở ra nhanh như những lần trước. Từng đợt gió thổi qua lạnh buốt, cứa vào các vết nứt trên những bàn chân đang phồng rộp, rướm máu. Đoàn người nữ vẫn kiên tâm chờ đợi. Tất cả cùng mong ngóng hướng về Đức Thế Tôn nơi căn hương thất nhỏ tĩnh lặng.
Thế rồi, Tôn giả A Nan bước ra. Ngài nở một nụ cười hiền hậu.
- Kính thưa Đức bà, Đức Thế Tôn bảo rằng nếu Đức bà và các quý vị nữ đây chấp nhận được Tám Phép Cung Kính, Người sẽ vui lòng đón nhận mọi người vào hàng ngũ Sa môn.
Tám Phép Cung Kính quy định một Tỳ kheo Ni phải luôn giữ thái độ cung kính với một Tỳ kheo Tăng, dù Tỳ kheo Tăng đó ít tuổi hạ hơn. Tỳ kheo Ni không được lớn tiếng hay bắt lỗi Tỳ kheo Tăng. Và khi có lỗi, Tỳ kheo Ni phải đến sám hối với cả hai bên chư Tăng, chư Ni. Cũng như vậy, nếu có một người nữ muốn xuất gia, cần phải có cả chư Tăng và chư Ni đồng ý. Mỗi nửa tháng, chư Ni sẽ được chư Tăng sang giảng đạo. Nơi ở của Tỳ kheo Ni phải nằm trong vòng kiểm soát của Tỳ kheo Tăng để bảo vệ dễ dàng hơn. Và cứ sau mỗi mùa an cư, Tỳ kheo Ni sẽ đến tự tứ với Tỳ kheo Tăng để chư Tăng đánh giá về phẩm hạnh của mình.
Đức bà nhận thấy Tám Phép Cung Kính này chính là phương tiện để duy trì và che chở cho Ni đoàn. Lòng biết ơn với Thế Tôn dâng tràn. Ước mơ của Ngài đã trở thành sự thực. Đức bà cùng tất cả các vị hoan hỷ đón nhận.
Ngay sáng sớm hôm sau, Đức bà Ba Xà Ba Đề, Công nương Da Du Đà La cùng hàng trăm thị nữ đã vân tập về khoảng sân phía trước ngôi nhà nhỏ. Các vị quỳ chắp tay thành kính. Khung cảnh vô cùng trang nghiêm, dường như đến cả tiếng lá rơi cũng trở nên khe khàng. Thế Tôn ngự trên bậc đá của căn nhà. Người cất giọng phạm âm đầy lòng bi mẫn:
- Lành thay các thiện nữ, hãy đến đây sống một đời xuất gia đúng Pháp. Hãy trở thành chủng Tỳ kheo Ni, đệ tử của Như Lai.
Đức Thế Tôn vừa dứt lời, mái tóc trên đầu các vị biến mất, y phục lập tức biến thành những tấm y ca sa nâu. Tất cả vui sướng cung kính đảnh lễ Thế Tôn. Từ đây, Ni chúng chính thức được thành lập, mở ra cả khoảng trời giác ngộ bao la cho người nữ mãi về sau này.
Trích "Thánh Độ Mạng TÔN GIẢ NI MA HA BA XÀ BA ĐỀ (MAHA PAJAPATI GOTAMI)"
_________________
Hoang Nguyen gởi
