Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 
TÔN GIẢ NI XA CÂU LÊ (SAKULA)
THIÊN NHÃN ĐỆ NHẤT NI CHÚNG

Cách đây rất lâu xa, thời Đức Phật Ca Diếp (Kassapa Buddha) thị hiện giáo hóa, có một vị Tỳ kheo Ni tinh tấn tu hành, Ngài vào tận rừng sâu để thực hiện hạnh đầu đà trọn vẹn.

Một ngày, khi nghe tin Đức Phật nhập Niết Bàn, vị Tỳ kheo Ni vô cùng xúc động, Ngài ngay lập tức trở về và quyết định sẽ thực hiện một hạnh nguyện đặc biệt để bày tỏ tấm lòng của mình đối với Đức Ân Sư.

Trên đường đi, vừa khất thực, Ngài vừa hỏi xin dầu thắp đèn ở khắp nơi. Khi về đến tháp thờ, Ngài cẩn thận lau từng chân đèn sao cho sạch sẽ rồi với số dầu vừa được cúng dường, Ngài thắp sáng cả đại điện.

Màn đêm phủ xuống, ánh lửa từ hàng ngàn cây đèn bừng lên rực rỡ, đền thờ tỏa ánh sáng ấm áp mà tôn nghiêm. Trong niềm xúc động khôn cùng, vị Tỳ kheo Ni chắp tay thành kính, chầm chậm quỳ xuống trước Xá Lợi Đức Phật Ca Diếp:

- Bạch Thế Tôn, nguyện cầu Người gia hộ cho ánh sáng chánh Pháp mãi mãi trường tồn để chúng sinh được an vui nương tựa.

Suốt đêm đó, Ngài thức để trông giữ ngọn lửa ...

Nhờ công đức ấy, khi mạng chung, vị Tỳ kheo Ni tái sinh lên cõi trời Đao Lợi ngập tràn ánh sáng, sống ở Thiên giới trong nhiều nghìn kiếp.

Đến thời Đức Phật Thích Ca, Ngài trở thành đệ tử xuất gia của Người, thành tựu Thiên nhãn thù thắng, chứng đạt quả vị giải thoát tột cùng. Vị Tỳ kheo Ni ấy chính là Tôn giả Xa Câu Lê (Sakula).

I. XUẤT THÂN

Tại kinh thành Xá Vệ (Savatthi), đất nước Kiều Tát La (Kosala), có một gia đình Bà la môn trưởng giả cao quý và giàu có tột bậc. Danh tiếng của họ lẫy lừng đến nỗi vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) cũng phải nể trọng. Vị trưởng giả có một ái nữ hiền hậu tên là Xa Câu Lê.

Tiểu thư Xa Câu Lê có đôi mắt đẹp vô cùng. Ánh mắt sáng, trong ngần, rất mực dịu dàng. Qua ánh mắt mỗi khi Ngài nhìn một ai đó, người ta thấy được cả sự chân thành, sâu sắc của một nội tâm phong phú và đầy lòng trắc ẩn.

Tiểu thư có phước báu lạ kỳ là không bao giờ phải ở trong bóng tối. Nhiều lần người thị nữ để ý thấy, mỗi khi Ngài đặt chân đến một nơi nào đó vào lúc trời đã muộn, thì dù hoang vắng xa xăm cách mấy, cũng có người phát tâm mang đến đuốc đèn để thắp sáng.


IV. THIÊN NHÃN ĐỆ NHẤT

Sau khi xuất gia, Tôn giả Xa Câu Lê được những bậc Trưởng lão chỉ dạy về thiền định và các oai nghi tế hạnh của một Tỳ kheo. Ngài tu hành tinh tấn và rất nghiêm mật.

Không bao lâu sau, vào một đêm cô tịch, Tôn giả an trú dần vào trong các tầng thiền định. Đến nửa đêm, trí tuệ bừng tỏ phá tan màn vô minh, Ngài chứng đắc Thánh quả A La Hán, viên mãn giải thoát giác ngộ.

Do nhân duyên nhiều đời, Thiên nhãn của Ngài đạt được năng lực thù thắng, chiếu rọi cùng khắp đến vô lượng vô biên thế giới.

Giây phút đó, Ngài hướng tâm về khoảng không gian vô tận trên bầu trời. Trong tức khắc hiện ra vô số những tinh vân, thiên hà, hàng tỷ tỷ ngôi sao sáng lấp lánh... cả vũ trụ như nằm trọn trong một tia nhìn sâu thẳm. Ngài thấy nơi đâu cũng có sự hiện diện của chúng sinh. Từ các hành tinh xa xôi, biển cả bao la, đồi núi điệp trùng đến những sa mạc hoang vu nắng cháy... Đến cả một giọt nước li ti cũng chứa đựng cả thế giới của ngàn vạn sinh vật nhỏ bé. Sự sống vô cùng đa dạng, phong phú, ngập tràn trong pháp giới. Thế nhưng, nỗi khổ đau cũng tràn ngập bủa vây lấy cuộc đời chúng sinh.

Ngài hướng về sự lưu chuyển của chúng sinh trong luân hồi sinh tử. Từ các tầng trời, cõi quỷ thần, cõi người đến súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, tất cả đều theo nghiệp duyên thiện ác mà chiêu cảm. Ai biết tu hành, làm việc thiện thì được quả báo lành, sinh về nơi hạnh phúc an vui. Ai làm ác thì phải chịu khổ đau, thậm chí phải đọa đày trong địa ngục chịu sự tra tấn khủng khiếp để đền tội. Luật Nhân quả quyết định tất cả, công bằng tuyệt đối, không chừa một ai.

Bằng Thiên nhãn siêu tuyệt, Tôn giả nhìn sâu trong tâm của chúng sinh, thấy được tới những nhân quả vi tế sâu xa. Cùng một hành động nhưng chỉ sai khác nhau trong đường tơ kẽ tóc, một ý niệm thầm kín cũng dẫn đến những quả báo cách nhau một trời một vực. Có người bố thí, cúng dường nhưng khởi tâm tiếc rẻ nên được quả báo giàu sang nhưng đời sống cực kì hà tiện, kham khổ. Có kẻ làm điều thiện nhưng không xuất phát từ đạo đức, nên khi phước báo thành tựu thì bản ngã cũng lớn theo, đầy mưu toan ích kỷ rồi phải chịu đau khổ ở kiếp sống sau. Cũng có người làm việc tốt nhưng không kiên trì, trong một lúc nóng nảy rũ bỏ tất cả thì đời sau đang thành công bỗng chốc bị đổ vỡ... Mọi cảnh đời sai biệt đều do các nhân đã gieo mà thành.

Thế nhưng, dù chúng sinh có được hưởng phước báu nơi cõi trời vinh quang tột bậc rồi cũng chỉ là vô thường, mong manh, tạm bợ. Cuối cùng, vẫn lại là khổ đau. Vô lượng kiếp, hết kiếp này đến kiếp khác, chúng sinh đã chết đi rồi lại tái sinh không biết bao nhiêu lần, cứ thế lẩn quẩn trong các cõi. Chúng sinh trôi lăn trong sinh tử, ngụp lặn giữa dòng nghiệp quả mà không biết lối ra. Chỉ những ai may mắn được chỉ dạy và tu hành theo chánh Pháp của Đức Phật mới có con đường cao thượng để hướng về và cuối cùng sẽ đến được bến bờ hạnh phúc.

Thiên nhãn của Ngài là cực kỳ vi diệu, không thể nghĩ bàn. Với lòng từ bi bao la của một vị A La Hán, Ngài đã dùng Thiên nhãn ấy để phổ độ vô số chúng sinh trong khắp pháp giới. Vì vậy một lần, giữa hội chúng rất đông các vị Tỳ kheo, Đức Thế Tôn đã tán thán:

“Trong các đệ tử Ni của Như Lai, thành tựu Thiên nhãn đệ nhất, nhìn khắp không trở ngại, chính là Tỳ kheo Ni Xa Câu Lê”.

Cách đây hơn một trăm nghìn đại kiếp, thời Đức Phật Thắng Liên Hoa (Padumuttara) thị hiện giáo hóa,

Ngài đã phát lên lời nguyện chí thành để thành tựu Thiên nhãn tối thắng và được Đức Phật thọ ký. Từ đó, trong các kiếp tái sinh, lúc nào Ngài cũng làm vô số công đức lành cúng dường và hỗ trợ Tam Bảo. Ngài tu hành, giữ giới hạnh thanh tịnh, cúng dường đèn nến thắp sáng tháp thờ Đức Phật, không quản ngại vất vả mang ánh sáng đến cho mọi người, luôn quan sát tinh tế trong từng điều nhỏ nhặt và luôn giúp đỡ, không bỏ bất kỳ một nỗi khổ nào của chúng sinh một khi đã trông thấy qua

Nhờ công đức ấy, nhiều đời nhiều kiếp Ngài lúc nào cũng được sống trong cảnh hạnh phúc. Nếu tái sinh trong cõi trời thì đạt được Thiên nhãn thù thắng, nếu sinh vào cõi người thì có đôi mắt rất đẹp và phước báu luôn có được ánh sáng đầy đủ, không bao giờ phải chịu cảnh tối tăm.

Trích Thánh Độ Mạng TÔN GIẢ NI XA CÂU LÊ (SAKULA)


_____________________


Hoang Nguyen gởi