
Vị A La Hán TÔN GIẢ Tân-đầu-lô Phả-la-đọa-già, nghĩa dịch là Lợi Căn.
(tiếng Phạn: Piṇḍola Bhāradvāja)
Ngài là một trong 4 Đại A La Hán tôn giả được Đức Phật yêu cầu không nhập Niết Bàn ở lại thế gian đến đời vị lại để truyền bá Phật pháp
Vị Tôn giả này cho đến nay vẫn còn ở trên thế gian này chớ chưa vào Niết-bàn, cho nên ngài được coi là Bậc Phước điền bậc nhất, làm phước điền cho mọi chúng sanh.
Khi Phật còn tại thế, các vị A-la-hán đều có thần thông nhưng không được phép tùy tiện hiển lộ thần thông của mình.
Một lần nọ, có vị Trưởng giả dựng một cây cờ, rồi đặt trên đầu cây cờ một cái bát bằng gỗ Chiên-đàn và nói rằng: “Ai có thể dùng thần thông đem bát ấy xuống tôi sẽ tặng cho người ấy.” Tôn giả Tân-đầu-lô-phả-la-đọa bèn dùng thần thông lấy bát xuống.
Phật biết được liền quở trách, yêu cầu ông phải ở lại thế gian mà làm phước điền cho chúng sanh. Vào thời Mạt pháp, đệ tử Phật khi làm công đức cúng dường có tâm chí thành thì ngài sẽ đến ứng cúng để thọ nhận sự cúng dường trai tăng tạo Phước Điền chúng sanh, thường trụ trên thế gian, hộ trì chánh pháp.
Do đó tại nhà Trai Đường của các tự viện, thường có một chỗ ngồi ở hàng đầu phía Tây, tức là chỗ của Hòa Thượng Thủ Toạ (首座, trong Thiền Tông, là tên gọi của vị đứng đầu trong chúng), nhưng lại không có ai ngồi.
Tuy nhiên tại chỗ đó vẫn thường xuyên có thiết dọn thức ăn, vật uống, chén đũa, v.v., để cúng dường Tôn Giả TÂN ĐẦU LÔ. Khi cúng dường Trai Tăng, Tôn Giả hoặc sẽ hiện thân Tỳ Kheo hoặc ẩn thân biến hoá thần thông đến đến thọ nhận cúng dường.
Cho nên khi chú nguyện cúng dường thường có câu:
“Nam Mô Tân Đầu Lô Phả La Đọa Xà - Tôn Giả tác đại chứng minh.”
Tương truyền Trung Hoa, có một phú ông nọ phát tâm cúng dường Trai Tăng cho 1000 vị tăng với mục đích cầu phước và mong được La Hán đến thọ nhận. Ông thiết lễ trai đàn trong 3 ngày, đến tối thứ 3 ông nằm mộng thấy một lão Tỳ Kheo mặc áo quần lam lũ, trên trán nỗi 3 cục u ghê sợ hiện đến bảo phú ông rằng: “Tôi là Tân Đầu Lô đây !” “Ồ, ngài là Tân Đầu Lô sao ? Ngài có đến dự cúng dường phải không ?” Tôn Giả đáp: “Có chứ ! Ngày thứ nhất, tôi đến thì người giữ cửa không cho vào. Tôi bảo là tôi đến để tạo phước điền cho chủ nhà này. Người canh cổng không tin, bảo rằng áo quần tôi lam lũ thế này, lấy gì có phước mà ban cho người khác. Nói xong người ấy dùng gậy đánh tôi, làm cho trán tôi u lên một cục.
Đến ngày thứ hai, tôi lại bị đánh u thêm một cục nữa. Qua ngày thứ ba, tôi tưởng là ngày cuối cùng có thể vào được, nhưng cũng bị đánh thêm lần nữa.”
Phú ông tỉnh dậy, biết được sự thật, vô cùng tiếc nuối không có phước duyên để đón tiếp Thánh tăng.
Lại có một ông quan huyện, nghe đồn cúng dường Trai Tăng nhất định sẽ có Thánh tăng Tân Đầu Lô quang lâm thọ cúng dường. Ông bèn thiết trai cúng dường tại Thiên Đồng Tự (天童寺) ở Ninh Ba (寧波). Đến thời thọ trai buổi trưa, ông chợt thấy một vị Tỳ Kheo mặc áo quần lam lũ, già khụm, nước miệng nước mũi chảy nhễ nhại, chẳng chút oai nghi nào, bước đi ngã nghiêng, tiến về phía chỗ ngồi của vị Thủ Tòa. Thông thường vị trí này luôn dành để cúng dường cho Thánh tăng. Ông quan huyện đến gần xem, nhìn kỹ thấy toàn thân từ trên xuống dưới của vị Tỳ Kheo ấy nhơ nhớp không thể chịu được. Ông bèn dùng tay xách lỗ tai vị kia kéo xuống ngồi hàng ghế cuối cùng.
Sau khi thọ trai xong, quan huyện hỏi Thiên Đồng Thiền Sư xem thử hôm nay Thánh tăng có đến tham dự không ? Thiền Sư trả lời có. Nghe vậy, quan huyện mừng rỡ hỏi xem đó là ai ?
Đáp: “Đó chính là vị Tỳ Kheo mà ông xách lỗ tai.”
Lão quan huyện kinh ngạc, run bắn người thốt lên rằng: “Quả là có mắt mà không tròng. Ta đã làm nhục Thánh tăng rồi ! Tội lỗi tày trời !”
Theo Đại Tống Tăng Sử Lược (大宋僧史略) quyển 3, phần Phương Đẳng Giới Đàn (方等戒壇) cho biết rằng khi Luật Sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) ở Chung Nam Sơn (終南山) kiến lập Linh Cảm Giới Đàn tại Tinh Xá Thanh Quan Thôn (清官村), có vị tăng A La Hán lông mày dài đến trước Giới Đàn tán thán. (Tôn giả Tân đầu lô)
Như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 3 có đoạn: “Hàng phục ngoại đạo, lý hành chánh pháp, sở vị Tân Đầu Lô Tỳ Kheo thị (降伏外道、履行正法、所謂賓頭盧比丘是, hàng phục ngoại đạo, thực hành chánh pháp, đó gọi là Tỳ Kheo Tân Đầu Lô.”
Cũng lại trong Kinh Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 44,
đức Phật thọ ký cho 4 vị Thanh Văn, trong đó có Tân Đầu Lô rằng:
năm nay ta đã suy yếu, tuổi đã hơn tám mươi, tuy nhiên nay Như Lai có bốn vị đại Thanh Văn, có thể đảm nhiệm việc du hóa, trí tuệ vô tận, các đức đầy đủ. Thế nào là bốn ?
Đó là Tỳ Kheo Đại Ca Diếp, Tỳ Kheo Quân Đồ Bát, Tỳ Kheo Tân Đầu Lô, Tỳ Kheo La Vân. Các người, bốn đại Thanh Văn này chủ yếu không nhập Niết Bàn, đến khi pháp của ta diệt hết, sau đó mới nhập Niết Bàn (4 đại A La Hán này sẽ không nhập Niết Bàn mà ở lại thế gian hộ trì Phật Pháp)
CÂU CHUYỆN NGÀI A LA HÁN TÔN GIẢ TÂN ĐẦU PHẢ LA ĐOẠ LIÊN QUAN ĐẾN BIỂU DIỄN THẦN THÔNG
Trong Tăng Chi Bộ Kinh (AN 3:61), Đức Phật nói với một vị Bà-la-môn rằng hàng trăm vị đệ tử Tỳ-kheo của Ngài đều có được các năng lực thần thông. Tuy nhiên, Ngài đã cấm họ biểu diễn những năng lực đó cho người tại gia. Câu chuyện nguồn gốc của lệnh cấm này—mà chúng ta đã trích dẫn ngắn gọn liên quan đến điều 8 trong nhóm Ưng Đối Trị (Pc 8)—cho thấy lý do tại sao:
Bấy giờ, một khối gỗ chiên-đàn quý giá, từ lõi cây chiên-đàn, đã đến tay vị trưởng giả ở thành Vương Xá (Rājagaha). Ông nảy ra ý nghĩ: "Ta sẽ cho người tạc một cái bình bát từ khối gỗ chiên-đàn này thì sao nhỉ? Những mảnh vụn sẽ để ta dùng, còn cái bát ta sẽ đem đi cúng dường." Thế là, vị trưởng giả, sau khi cho người tạc một cái bát từ khối gỗ chiên-đàn, lấy một sợi dây buộc quanh nó, treo nó lên ngọn một cây tre, rồi cho gắn cây tre đó lên trên một loạt các cây tre khác, cây nọ nối tiếp cây kia, đã thông báo rằng: "Bất kỳ vị Bà-la-môn hay sa-môn nào là bậc xứng cúng (A-la-hán) có thần thông: hãy lấy cái bát xuống và nó sẽ được dâng cho vị ấy."
Bấy giờ, Pūraṇa Kassapa đến gặp vị trưởng giả ở thành Vương Xá và khi đến nơi, nói với ông: "Bởi vì tôi là một bậc xứng cúng có thần thông, hãy đưa cái bát cho tôi." "Thưa ngài, nếu ngài là một bậc xứng cúng có thần thông, xin hãy lấy cái bát xuống và nó sẽ được dâng cho ngài."
Rồi Makkali Gosāla… Ajita Kesakambalin… Pakudha Kaccāyana… Sañjaya Belaṭṭhaputta… Nigaṇṭha Nāṭaputta lần lượt đến gặp vị trưởng giả ở thành Vương Xá... và nói: "Bởi vì tôi là một bậc xứng cúng có thần thông, hãy đưa cái bát cho tôi." "Thưa ngài, nếu ngài là một bậc xứng cúng có thần thông, xin hãy lấy cái bát xuống và nó sẽ được dâng cho ngài."
Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên (Mahā Moggallāna) và Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja, mỗi vị đều đắp y từ sáng sớm, mang theo y và bát của mình, đã vào thành Vương Xá để khất thực. Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja là một bậc xứng cúng có thần thông, và Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cũng là một bậc xứng cúng có thần thông (§). Bấy giờ Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja nói với Tôn giả Đại Mục-kiền-liên: "Này hiền hữu Moggallāna, hãy đi lấy cái bát xuống đi. Cái bát đó là của hiền hữu đó." Rồi Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói với Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja: "Này hiền hữu Bhāradvāja, hãy đi lấy cái bát xuống đi. Cái bát đó là của hiền hữu đó."
Thế là Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja, bay lên không trung, lấy cái bát và bay ba vòng quanh thành Vương Xá. Bấy giờ, vị trưởng giả ở thành Vương Xá đang đứng trong sân nhà cùng với vợ con, chắp tay trước ngực đảnh lễ, (nói rằng,) "Xin Tôn giả Bhāradvāja hãy đáp xuống ngay tại sân nhà của chúng con." Thế là Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja đáp xuống sân nhà của vị trưởng giả. Bấy giờ, vị trưởng giả, sau khi nhận lấy cái bát từ tay Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja, đã đổ đầy các loại thực phẩm phi thời quý giá vào đó, và dâng lên Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja. Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja, nhận lấy cái bát, trở về tu viện.
Mọi người, khi nghe rằng "Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja, nghe nói, đã lấy được cái bát của vị trưởng giả xuống," đã đi theo ngay sau ngài, tạo ra một tiếng la hét, một tiếng ồn ào inh ỏi. Đức Thế Tôn, nghe thấy tiếng la hét, tiếng ồn ào inh ỏi đó, đã hỏi Tôn giả Ānanda: "Này Ānanda, tiếng la hét, tiếng ồn ào inh ỏi đó là gì vậy?"
"Bạch Đức Thế Tôn, Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja đã lấy được cái bát của vị trưởng giả ở thành Vương Xá xuống ạ. Mọi người, khi nghe rằng ‘Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja, nghe nói, đã lấy được cái bát của vị trưởng giả xuống,’ đang đi theo ngay sau ngài, tạo ra một tiếng la hét, một tiếng ồn ào inh ỏi. Đó là tiếng la hét, tiếng ồn ào inh ỏi mà Đức Thế Tôn (nghe thấy) ạ."
Bấy giờ, Đức Thế Tôn, nhân sự việc này, đã cho triệu tập Tăng đoàn các Tỳ-kheo và chất vấn Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja: "Có thật không, này Bhāradvāja, như người ta nói, rằng con đã lấy cái bát của vị trưởng giả xuống?"
"Thưa vâng, bạch Đức Thế Tôn."
Bậc Giác Ngộ, Đức Thế Tôn, đã quở trách ngài: "Thật không thích hợp, này Bhāradvāja, không xứng đáng với một vị sa-môn, không đúng đắn, và không được phép làm. Làm sao con có thể biểu diễn một pháp thượng nhân, một phép lạ thần thông, cho người tại gia chỉ vì một cái bát gỗ tầm thường? Cũng giống như một người phụ nữ có thể phơi bày bộ phận sinh dục của mình chỉ vì một đồng xu gỗ tầm thường, con cũng đã biểu diễn một pháp thượng nhân, một phép lạ thần thông, cho người tại gia chỉ vì một cái bát gỗ tầm thường."
—Cv.V.8
Thật kỳ lạ, Chú giải nhấn mạnh rằng lệnh cấm biểu diễn thần thông chỉ áp dụng cho thần thông biến hóa (có hại/bạo lực - vikubbana-iddhi), chứ không phải cho thần thông do quyết ý (adhiṭṭhāna-iddhi). Chú giải không làm rõ sự khác biệt giữa hai loại này, nhưng Phụ chú giải lưu ý rằng vikubbana-iddhi có nghĩa là, ví dụ, thay đổi hình dạng của mình thành một chúng sinh khác, chẳng hạn như một đứa trẻ hoặc một rắn thần (nāga) (như Đề-bà-đạt-đa đã làm với Thái tử A-xà-thế) hoặc thành một đội quân đa dạng trong đội hình chiến đấu; trong khi adhiṭṭhāna-iddhi chỉ đơn giản là nhân lên hình dạng thông thường của mình 100, 1.000, hoặc 100.000 lần thông qua sức mạnh của một sự quyết ý "Nguyện cho ta trở thành nhiều người." Sự phân biệt này rất thú vị nhưng không liên quan gì đến câu chuyện nguồn gốc—Tôn giả Piṇḍola đã không sử dụng vikubbana-iddhi—và không có cơ sở trong Kinh điển.
___________________
Hoang Nguyen gởi