Trại tị nạn của người viết – Refugees’ Tent City – Camp Pendleton Califormia – cuối năm 1975
1.
Cơ hội "ngàn năm một thuở" tại các trại tị nạn mà dân Việt gần như không thể có được khi sống tại Việt Nam là: sự tự do thay đổi lý lịchvà học Anh ngữ miễn phí. Thực ra, đây cũng là hai sinh hoạt bận rộn và nhộn nhipnhất của dân Việt tạm trú tại các trại tị nạn.
Sự thay đổi lý lịch gồm cả việc đổi tên, đổi tuổi và đổi sựkhông tưởng: địa vị xã hội [social status].
Chị Nguyễn Thị Gáo với một cái tên cúng cơm rất mộc mạc, hiềnlành của "hoa đồng cỏ nội." Từ sau khi chị bị té giếng, hồi còn làthiếu nữ ở Cần Thơ, đầu óc của chị cho đến nay chưa hoàn toàn tỉnh táo, đó cóthể là lý do mà chị vẫn còn "độc thân tại chỗ" với cái tuổi ba mươimí rồi. Nhân cơ hội ngàn năm một thuở này, chị đổi tên cho có vẻ tỉnh thành,thơ mộng, văn nghệ hơn; và đổi tuổi cho trẻ trung hơn là: "Nguyễn Thị phương Loan" hai mươi mốt tuổi. Mẹ của chị Gáo, cụ bà Nguyễn Thị Thau, thườngthan phiền với hàng xóm tị nạn là:
- Chèng đét ơi! Tôi đặt cho nó tên là Gáo, tức là gáo dừađể múc nước cho sạch sẽ và bền bỉ. Không biết ăn nhằm cái giống gì" mắc chứnggì" mà nó đổi tên thành "Lon!" [Loan] bằng sắt cho nó mau rỉsét, mau lủng.
Với sự thay đổi đầy tiện nghi này, hy vọng rằng chị đã gặp được tình quân, có thể là cựu "Trung Tá Y Sĩ" hay cựu "Đại Tá" một cách mau chóng.
Cụ Lý Toét nằm chung lều [mỗi lều trong trại có thể chứa khoảng4 đến 6 gia đình tị nạn] với tôi đã 65 tuổi, tức là tới tuổi hợp lệ về hưu ăn"tiền già" nếu sống ở đất Mỹ. Vì chúng tôi thuộc đợt thuyền nhân đầu tiên, ú a ú ớ, không có người hướng dẫn, cứ sợ ra khỏi trại Mỹ nó thấy tuổi già không mướn làm việc thì chết đói mất. Cụ tự khai rút lại tuổi, chỉ còn có 55! Tôiđoán là cụ sẽ đấm ngực "lỗi tại tôi; lỗi tại tôi mọi đàng! " về cái lỗilầm quá tai hại này! Bởi vì cụ sẽ còn phải "cày" thêm khoảng một chục năm nữa mới về hưu được! Có lẽ cụ đã qui tiên trước khi nhận cái "check"phụ cấp hưu trí đầu tiên của sở xã hội Mỹ. Tội nghiệp chung cho dân tị nạn,nhân bần chí đoản. Chỉ vì sự lo âu về sinh kế trên đất lạ mà đầu óc trở thành đặc kịt như khoai tây, không thể phân tích lợi với hại; hai mắt giống như mắt ngựa kéo xe bị che cả hai bên, không nhìn xa được. Cho nên tự ý khai báo lại, sửa đổi tầm bậy tầm bạ trong cái hoàn cảnh vô luật lệ, vô sổ sách này.
2.
Gia đình Bác Toàn [không phải tên thật,] cũng ở chung lều với tôi. Trong lần đầu tiên tiếp chuyện với Bác gái, Bác đã "khiêm nhường"thông báo cho tôi cái địa vị xã hội của gia đình Bác như sau:
- Ông nhà tôi là "cựu Đại Tá" của QLVNCH! Trướcđây gia đình tôi làm chủ 3 tiệm thuốc tây ở Sài gòn. Gia đình tôi còn có cả một bầy vú em, con ở phục vụ. Bây giờ ở đây [trại tị nạn] cái gì cũng phải tự làm lấy.Thật khổ ghê!
Cô con gái lớn của Bác, người có cái nhan sắc giống như nhan sắccủa anh hề Tùng Lâm, cứ luôn miệng than vãn là:
- Tiếc quá, lúc "chạy" không đem theo được "con nhỏ làm tóc." Bây giờ đầu tóc như ổ quạ. Thật rõ chán!
Nhận xét của chị thật đúng! Tóc của chị cả lúc nào nhìn cũng giống như đau ban mới khỏi!
Lúc đó tôi ngây thơ, rất "nể nang" cái "danh giá" của gia đình Bác. Tôi vẫn tiếp tục giữ liên lạc, thăm hỏi gia đình bác nhiều năm sau khi ra khỏi trại tị nạn. Gia đình Bác được bảo trợ[sponsored] và định cư tại San Diego ngay từ ngày đầu của tháng 9 năm 1975. Bác trai sau này làm "Security Guard" và Bác gái chứa cờ bạc xì phé ở nhà để kiếm thêm tí tiền "xâu" cho ngân quỹ gia đình.
Năm 1984 tôi lập gia đình. Tôi đã mời hai bác tham dự đám cưới củatôi. Tại đám cưới này, tôi mới biết sự thật về cái "danh giá" của gia đình Bác. Đồng thời cũng tại đám cưới của tôi, Bác gái mới biết được là quả đấttròn; không có gì che dấu được lâu dưới ánh sáng mặt trời. Bác trai, trước năm1975, là Trung Úy của cục Tiếp Vận và làm dưới quyền của Trung Tá Chín. TrungTá Chín cũng được ông Bố vợ tôi mời dự đám cưới của tôi vì Trung Tá hồi còn ở chức vụ Thiếu Tá, đã từng là Sĩ Quan cùng đơn vị với Bố vợ của tôi. Hai thầy trò[Trung Tá Chín và "Đại Tá" Toàn] gặp nhau trong hoàn cảnh không có hẹn trước tại đám cưới này. Như tôi được giải thích rõ rằng hơn sau đó, nhà BácToàn chẳng có làm chủ tiệm thuốc tây nào cả. Bác gái chỉ buôn lậu thuốc Tây lặtvặt [có thể là buôn bán thuốc Tây giả!] Nhà Bác ở trong một ngõ hẻm ở khuTrương Minh Giảng cũ. Đi bộ từ ngoài đường cái vào đến nhà Bác phải hát bài"Anh Đến Thăm Em Một Chiều Mưa" hết ba lần mới đặt chân tôi cửa nhàBác. Khi muốn trở ra đường cái từ nhà Bác, tốt nhất là phải nhờ con Bác dẫn ra;nếu không bảo đảm sẽ đi lạc nếu đến thăm nhà Bác lần đầu. Bác gái đã thật can đảm thăng một lúc 4 cấp cho Bác trai, từ "Trung Úy" lên tuốt luốt "ĐạiTá" không phải tại mặt trận, mà tại trại tị nạn chỉ vài ngày sau "30tháng 4 năm 1975."
3.
Trong tại tị nạn, sự thay đổi địa vị xã hội tương tự như vậykhông phải là hiếm. Anh binh nhì tự thăng cấp mình lên thành Thượng Sĩ. Anh"Trung Sĩ Y Tá" thành "Trung Tá Y Sĩ." Anh "Thư KýHành Chánh" thành Phó Tổng Giám Đốc ..v.. v.. Người nào cũng làm quan lớn,chủ tiệm, chủ thương nghiệp, chủ chợ, chủ phố cho Mỹ mướn, chủ vựa cá, chủ đồnđiền cà phê, chủ đồn điền trà, hoặc chủ ruộng đất cò bay thẳng cánh. Chẳng cóai làm lính trơn, chài lưới, cày ruộng, du đãng đường hẻm, cướp giựt hoặc ănmày vô sản bần cố nông cả. Thật đúng là loạn! Không biết đâu là vàng, đâu là thauđể xét đoán, lựa chọn. Nhiều cô gái ngây thơ nhẹ dạ, sau khi say mê nghe cácanh "tài tử" thuyết trình không nghỉ về cái lý lịch "trời ơi ấthỡi," vô căn cứ, đã vội vã làm đám cưới với các anh có cái lý lịch "vàngson" này ngay tại trong trại tị nạn. Khỏi cần phải bàn thêm, các cô nàybây giờ có lẽ không sớm thì muộn, đã thấy hoặc phát giác ra cái thực tế, cái lýlịch "lủng" của các thợ "phỉnh" một cách phũ phàng! Một sốlớn các cô này đã trở thành nữ thi sĩ. Hèn gì! thi sĩ Hà Huyền Chi đã có lần nhậnxét như sau:
- Sau ngày "30 tháng 4 năm 1975," văn đàn Việt Nam ở hảingoại bị lạm phát thi sĩ.
4.
Việc học Anh Ngữ miễn phí trong trại tị nạn mới thật là ngoạn mục.Trong đời đi học của tôi, tôi chưa thấy bao giờ học sinh lại chăm chỉ như vậy. Tôinhớ hồi còn ở Saigon, Mẹ tôi phải chạy ngược, chạy xuôi vay nợ để cho tôi có tiềnđóng tiền trường học thêm Anh Ngữ tại trường Nguyễn Ngọc Linh vào buổi tối. Thếmà tôi vẫn cố gắng tìm mọi cơ hội để "cúp cua" trốn học. Bây giờ thìtình thế hoàn toàn khác hẳn. Lính TQLC Mỹ đã dựng một số lều thật lớn để dùnglàm lớp dậy Anh Ngữ. Thầy giáo, cô giáo hầu hết là những người Mỹ tình nguyện củacác hội Thiện Nguyện Tình Nguyện Nhân Đạo [gọi tắt là cơ quan"Volag"] dậy học Anh Ngữ cho dân tị nạn. Họ không lãnh lương bổng gìcả. Sau giờ ăn chiều, chỉ chậm chân một tí là không tìm được chỗ ngồi trong cáclớp học này. Phải đứng suốt cả mấy tiếng đồng hồ.
Những "sex symbol" của trại là các anh thông dịch viên,những anh trợ giáo [teacher aids] cho các thầy các cô người Mỹ của các lớp họcAnh Ngữ này. Các anh trợ giáo nầy đại đa số là nhân viên cũ của sở Mỹ ở ViệtNam. Các anh trợ giáo nói Anh ngữ nghe như gà tây kêu, thế mà sao lúc đó tôicòn dốt đặc như cán mai, không thể phân biệt được thế nào là hay thế nào là dởcả! Mọi người trong trại tị nạn ngưỡng mộ các anh trợ giáo như thần tương. Cácem gái xinh đẹp thơ mộng của trại bị các anh này "cua" hết ráo! Dân tịnạn đực rựa độc thân thuộc loại "ngọng" như tôi chỉ có nước ở giá.
5.
Cụ Lý Toét luôn luôn chọn chỗ ngồi cạnh tôi trong lớp học anh ngữ.Lý do là chúng tôi ở chung lều, đã quen thuộc với mhau rồi. Kẹt kẹt, cụ phải cầnphải hỏi tôi về Anh ngữ thì cũng không ngượng. Cũng nên biết, cụ hỏi tôi khôngphải vì tôi giỏi giang gì! Nhưng vì tôi cũng đã biết "lõm bõm" Anh ngữ,còn cụ chưa từng đi học Anh ngữ hay tiếp xúc với ngoại quốc bao giờ cả. Thắc mắcđầu tiên của cụ là:
- Này anh ạ, tiếng Mỹ sao quái đản quá vậy" "ai"[I] cũng là tôi, mà "mi" [me] cũng là tôi" Không biết đường nàomà lần. Anh chỉ tôi cách phân biệt "ai" với "mi" sau giờ họcnhé.
Sau vài tuần lễ, cụ Lý Toét có vẻ tự tin hơn. Lớp học Anh ngữ đãtiến đến cấp khó hơn; có nghĩa là học trò phải tập nói làm một câu dài đầy đủchủ từ, động từ và túc từ chứ không phải học từng chữ một như mấy tuần đầu. Thầygiáo cho học sinh trong lớp tuần tự đọc và áp dụng câu "this is a..."
- This is a door.
- This is a chair.
- This is a table.
Rồi đến lượt cụ Lý Toét. Thầy giáo chỉ vào một cái ghế bố [TQLCMỹ phát cho mỗi dân tị nạn một ghế bố gấp lại được để làm vừa giường ngủ vừalàm ghế ngồi] xếp đứng ở trong góc lớp và ra dấu cho cụ lập câu và đọc. Mọi ngườiđều được dịp cười gần bể bụng vị cụ Lý Toét dịch là:
- This is a "Chair Father! "
Ối giời đất ơi! Cụ đã ghép chữ đúng theo nghĩa đen."Ghế" là "chair" và "Bố" là "father."Tôi phải giải thích cho cụ sau này tốt hơn là nên tránh dịch nghĩa đen như vậy.Mình nên học thuộc lòng cái danh từ Anh Ngữ của từng đồ vật hay người. Ghế bốphải được dịch là "Cot" chứ không phải là "chair father! "
6.
Anh "Thượng Sĩ" Tiến, người cũng ở cùng lều với tôi,sáng nào anh cũng ngồi trên ghế bố cầm đọc đọc tờ báo Anh ngữ mà anh vẫn nhặt từthùng rác do lính TQLC Mỹ quẳng để "hù" bà con láng giềng trong lều.Các cụ cao niên cứ tấm tắc khen anh Tiến là "giỏi quá, đã đọc được báo Mỹrồi! " Riêng tôi, qua nhiều lần ngồi nói chuyện với anh về vấn đề học Anhngữ, tôi vẫn có câu hỏi thật lớn là không biết anh Tiến có đủ trình độ Anh ngữđể đọc báo Mỹ không" Nhưng dù sao tôi phải khen ngợi anh ở chỗ anh có cố gắng.Một hôm, sau khi đọc mục rao vặt, tìm việc, anh nói lớn, trống không để cho mọingười trong lều cùng nghe chứ không nói trực tiếp riêng với người nào cả:
- Ở ngoài [trại tị nạn] Mỹ họ mướn người "coi con nít trênxe buýt" mà cũng trả đến $2.10 một giờ [lương tối thiếu lúc bấy giờ.]
Vì có tính hiếu kỳ nên tôi mới hỏi anh:
- Cái nghề đó tiếng Mỹ gọi là gì đó anh Tiến"
- Đó là nghề "Busboy." Anh trả lời.
Tôi may mắn đã biết được nghĩa chữ nầy hồi còn đi học Anh văn buổitối ở Sài Gòn, nên tôi nói:
- Không phải đâu anh. "Busboy" là người dọn bàn trongnhà hàng đó!
Nhưng anh Tiến cứ nằng nặc cãi cho bằng được "Busboy"phải là "coi con nít trên xe buýt." Cuối cùng, tôi đành phải chàothua anh vì sự quả quyết của anh làm tôi cũng áy náy, ngờ vực không biết mìnhnhớ đúng hay sai!
Trong lớp học, anh Tiến à người hăng hái đưa tay hỏi thầy cô vềmọi vấn đề của cuộc sống bên ngoài trại tị nạn. Anh hỏi cả cách chửi thề bằngtiếng Mỹ như thế nào. [Nên biết anh Tiến hỏi thầy bằng tiếng Việt và câu hỏi đượctrợ giáo dịch ra Anh Ngữ để cho thầy hoặc cô trả lời.] Riêng câu hỏi về chữ chửithề bằng Anh ngữ, cô giáo trả lời là anh không cần phải học trong lớp. Khi rakhỏi trại, đời sống sẽ dậy cho anh biết một cách tự nhiên.
Có một lần, cô giáo yêu cầu anh dịch một câu ngắn làm thí dụ chomột đề tài về làm câu của buổi học. Anh Tiến dịch là:
- "Your eye is as beautiful as the stars. [Mắt em đẹpnhư những vì sao!]"
Cô giáo khen là câu nói của anh Tiến rất "lãng mạn!"[romantic.] Nhưng rất tiếc là, theo lời cô giáo, người yêu của anh Tiến chỉ cómột mắt! !! Câu này phải nên sửa lại với mắt là số nhiều:
- "Your eyes are as beautiful as the stars."
Sau này, tôi có dịp gặp lại anh Tiến ở San Jose khoảng năm 1992.Anh làm chủ một cây xăng "Shell." Lúc đó có lẽ anh đã biết phân biệtdanh từ số ít và số nhiều mạnh giỏi rồi.
7.
Một cảnh bên trong Tent City – Camp Pendleton California
Khi làm giấy tờ định cư tại "processing center" trongtrại. Tôi gặp một ông Mỹ trắng chỉ dẫn dân Việt tị nạn cách điền vào các mẫuđơn và hoàn tất hồ sơ nộp cho Sở Di Trú Hoa Kỳ. Rất đặc biệt là ông ta nói tiếngViệt trôi chảy. Tiếng Việt với giọng Quảng Nam mới ly kỳ. Tôi rất lấy làm thíchthú vì trong khi mình còn ấp a ấp úng chưa nói được chữ tiếng Mỹ nào mà đã cóngười Mỹ nói tiếng Việt quá giỏi! Tôi tìm cách lân la lại làm quen với ông Mỹnày và được biết ông là Mục Sư Tin Lành đã từng làm việc Tuyên Úy cho quân độiMỹ tại Việt Nam.
Tôi hỏi Mục Sư:
- Thưa Mục Sư. Mục Sư có biết là đang nói tiếng Việt với giọng"Quảng Nam" không"
Mục Sư trả lời:
- Tôi biết chứ! Ông thầy tôi là người "Đè Nẽng" mà!Tôi còn phân biệt được giọng Bắc, giọng Nam và giọng Huế nữa.
Tôi hỏi thêm:
- Thế Mục Sư đã có gặp những trường hợp khó khăn nào khi giaothiệp với người Việt bằng tiếng Việt chưa"
- Có nhiều lần rồi! Trong một lần đọc bài giảng [sermon] chogiáo dân tin lành người Việt trong trại tị nan. Tôi lấy làm lạ vì thấy họ cườikhúc khích với nhau. Sau buổi lễ, hỏi ra thì tôi mới biết là tôi dùng dấu chữ Việttrật lất làm cho ý nghĩa thay đổi hết. Thay vì tôi muốn nói: "Chúa 'ban'phước lành cho anh chi em [God bless you all.]" Tôi lại nói là: "Chúa'bán' phước lành cho anh chị em [God sell the blessing to you all!]" Trongmột lần khác, tôi nói: "con chim nó 'ngồi' trên cây [the bird is sittingin the tree.]" Đáng lẽ tôi phải nói: "con chim nó 'đậu' trên cây mớiđúng."
Tôi xin bái phục vị Mục Sư Mỹ này làm Sư Phụ.
8.
Năm 1976, tôi và tám chín đứa "tứ cố vô thân" và"thất cơ lỡ vận" giống như hoàn cảnh của tôi, mướn chung nhau một"apartment" 2 phòng ngủ ở San Diego - California và chia nhau tiềnthuê mỗi tháng cho đỡ tốn kém vì đứa nào cũng làm lương tối thiểu cả. Mỗi lần,vì một lý do nào đó, "Manager" của khu "apartment" đếnthăm, thì đám "tứ cố vô thân" vội vàng chạy trối chết trốn vào trongcác tủ [closets] quần áo, bởi vì điều lệ thuê nhà không cho phép người thuê ởquá đông như vậy. Họ biết sẽ đuổi cổ ra khỏi "apartment." Thật tộinghiệp! Bạn cứ tưởng tượng quang cảnh chúng tôi lúc đang ăn cơm vội vàng bỏ bátđũa chạy vào tủ quần áo để trốn; giống hệt như lúc bạn bước vào bếp buổi tối, bậtđèn lên rồi nhìn thấy một đàn gián [cockroaches] chạy bán sống bán chết vào cácgóc kẹt trong nhà bếp vậy!
Trong đám "tứ cố vô thân" này có anh "roommate"Sĩ Phú. Anh Phú, chẳng những là một ca sĩ tài danh mà còn là một Thiếu Tá phicông trực thăng của KQVN. Anh Phú nói tiếng Anh rất giỏi vì anh Phú đã được đihọc lái trực thăng tại Hoa kỳ. Anh Phú chạy qua Mỹ với cùng tình trạng "khốrách áo ôm" như tôi. Anh "độc thân tại chỗ" vì bỏ lại vợ và 5con ở Việt Nam. Lâu lâu, cuối tuần mấy anh em thường rủ nhau đi nhà hàng Mỹ đểnghe nhạc sống cho đỡ buồn. Một hôm, vì ngứa nghề, anh Phú lên nói với anhchàng Mỹ trưởng ban nhạc là anh muốn được lên hát góp vui một bản nhạc. Khôngbiết anh nói thế nào mà anh trưởng ban nhạc, sau đó, nói qua cái"micro" tuyên bố với tất cả thực khách là:
- Ladies and Gentlemen, this is my honor to introduce to you ourspecial guest singer, Mr. "Seafood" who will sing for us abeautiful hit song, the "Unchained Melody."
Từ sau hôm đó, anh Phú có cái "nickname" là "Mr.Seafood."
Đến khi tôi thấy đã khuya rồi, ngày mai còn phải dậy sớm đi cày.Tôi nói với đám "tứ cố vô thân:"
- Thôi mình đi về đi! Mai còn phải dậy sớm đi làm.
Anh Phú trả lời là:
- Mày chờ tao vào "restroom" để "giặt" [wash]bộ râu xong rồi mới về nghe.
Sau này, khi có dịp gặp lại anh Phú lúc anh còn sống, tôi vẫnthường nhắc lại với "Mr. Seafood" về cái kỷ niệm này.
9.
Hôm nay, cái "nạn" của đất nước đã đánh dấu năm thứ32. Nhiều người tị nạn trong chúng ta đã đổi quốc tịch để thành "Mỹ gốc Á Châu!" Tên họ được viết đảo ngược [tên gọi đặt trước tên họ.] Nhiều người còn tiến bộ hơn, đổi cả tên lẫn họ thành tên Mỹ. Anh bạn Nguyễn Văn Tèo bây giờtrên giấy tờ là "Tony Newell!" Lúc đầu đọc nghe thấy kỳ kỳ; nhưng riết rồi cũng quen. Tôi còn nhớ lúc anh Tèo mới vào quốc tịch với cái tên mới Tony, bạn Mỹ gặp anh trên đường phố, gọi anh: "Tony, Tony..." Vậy mà anh nghe thấy, vẫn cứ bước đi thẳng như không có chuyện gì xẩy ra! Chính ngay anh cũng quên tên mới của anh là "Tony! " Có một lần anh đi ra tiệm giặt ủi của Mỹđể lấy quần áo giặt ủi về. Bà chủ tiệm người Mỹ nhìn cái biên nhận với cái tênmới "Tony Newell" của anh, rồi bà ta nhìn anh nói là:
- You do not look like "Tony Newell" to me!
Tony Newell là một vận động viên phóng phi tiêu chuyên nghiệp người Anh
10.
Hơn ba mươi năm trời trôi đã qua mà cứ tưởng như mới ngày hômqua. Đầu óc tôi cứ lơ đãng để ở một nơi nào đó ở Phi Luật Tận. Tôi chợt bừng tỉnhvới cái thực tế của hiện tại khi thằng con trai bẩy tuổi của tôi gọi to:
- Bố! bố! "Giặt" cái đầu cho con. Xà bông đang chẩy vào mắt con"nóng" quá!
Tôi nghe mà không khỏi vừa cười thầm vừa lo âu! Cười thầm vì tiếng Việt đã bị Mỹ hóa nghe khôi hài, ngớ ngẩn. Lo âu vì không biết tương lai tiếng Việt trên đất Mỹ sẽ đi về đâu" Chính bản thân tôi tiếng Mỹ đã không thấy giỏihơn chút nào mà tiếng Việt đã quên bớt đi rất nhiều. Lo âu cho thế hệ con, thếhệ cháu về sau này" Không biết tiếng Việt có trở thành "endangeredspecies" giống như voi và tê giác ở Phi Châu đang bị giết để lấy ngà làm đồtrang sức và sừng làm thuốc bắc hay không"
Trở về thăm quê nhà, nói chuyện với bạn bè cũ, láng giềng cũ thìsự lo âu đó càng to lớn hơn. Mình là người ngoại quốc sống trên đất Mỹ đã đành.Bây giờ, mình cũng lại là người ngoại quốc đối với ngay quê hương cha sanh mẹ đẻcủa mình. Đó là cái giá mà mình phải trả cho sự tự do. Đành phải chấp nhận"gặp thời thế, thế thời phải thế." Người Việt ở quê nhà bây giờ đangnói tiếng Việt với một bộ chữ Việt khác hẳn với chữ Việt như hồi tôi còn sống ởquê nhà. Nhiều khi tôi phải nhờ người nhà giải nghĩa mới hiểu!
"Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này!"
(Nguyễn Công Trứ)
- Quân Tử Cố Cùng)
"Xin trời đất thương cho nước Việt và dân Việt!" Tôi vẫnthường cầu nguyện.
Trần Văn Giang
_______________
Đỗ Hứng gởi