2. Nguồn Lợi Hoàng Sa – Quần đảo Hoàng Sa có 2 nguồn lợi lớn là hải sản và khoáng sản.
a. Hải sản – Ðủ loại: cá hồng, cá nục, cá đuối, cá mập, ốc tai tượng, trạch biển, rong biển, hải âu…
b. Khoáng sản – Khoáng sản của quần đảo Hoàng Sa là “phốt phát” (phosphate). Số lượng phốt phát do các đảo cung cấp: Hoàng sa: từ 562 đến 960 ngàn tấn, Vĩnh Lạc: từ 787 đến 1 triệu 200 ngàn tấn, Cam Tuyền: từ 675 ngàn tấn đến 1 triệu 400 ngàn tấn, Duy Mộng: từ 675 ngàn tấn trở lên (theo tài liệu của Tổng Nha Khoáng Chất và Công Kỹ Nghệ VNCH năm 1973).
3. Hoàng Sa gắn liền với lịch sử Việt Nam
Theo “Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Quý Ðôn (viết vào khoảng 1775-1776) thì tiền nhân ta đã mở mang kinh tế ở Hoàng Sa. Ông viết: “Năm 1638, Hiền Vương Nguyễn Phúc Tấn đã tuyển ngư phủ hải đảo Lý Sơn (tức cù lao Ré, Quảng Ngãi) để thành lập đội Hoàng Sa”.
Từ thời Chiêm Thành chưa sát nhập nước ta, người Chiêm Thành đã nhiều lần đi lấy hải sản ở Hoàng Sa.
Ðời Vua Gia Long, ngài đã đặt chân lên quần đảo Hoàng Sa năm 1802. Trong thời gian này, Việt Nam đã thành lập công ty Hoàng Sa, gồm khoảng 70 thủy thủ, đi Hoàng Sa để tìm hải vật.
Ðến đời Vua Minh Mạng (1820-1848), ngài đặc biệt chú ý đến Hoàng Sa. Trong cuốn “Hoàng Việt Ðịa Dư” (ấn hành năm 1835) đã chứng minh chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa như sau: “Ở phía Ðông Bắc xã An Ninh, Huyện Bình Sơn và ở ngoài biển khơi có một quần đảo gồm có 130 đảo nhỏ. Những hòn đảo này cách nhau bằng một ngày thuyền hoặc vài giờ thuyền. Dưới ven đảo đều có giếng nước ngọt. Ở giữa những mỏm đá người ta thấy có một bãi cát vàng bao la nên đảo này mang tên là Hoàng Sa. Nơi đây có sóng biển dữ dội.” Vua Minh Mạng đã sai đội hải thuyền chở gạch đá ra Hoàng Sa dựng chùa “Phật Cổ Tự” và dựng tấm bia “Vạn Lý Ba Ðình” (nghĩa là sóng êm nơi xa vạn lý) làm dấu tích. Theo “Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu” thì Vua Minh Mạng đã thân chinh đến quần đảo Hoàng Sa năm 1836 để quan sát việc đo đạc, xác định vị trí và lập họa đồ.
Từ năm 1920, các tàu tuần tiểu của Nha Thương Chánh Ðông Dương luôn luôn tới lui quần đảo Hoàng Sa để kiểm soát bọn buôn lậu vũ khí và á phiện.
Năm 1925, Hải Học Viện Ðông Dương đã cử một phái đoàn thám hiểm khoa học đến quần đảo Hoàng Sa để nghiên cứu khoáng sản tại đó.
Ngày 3-3-1925, ông Thân Trọng Huề, Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh của triều đình Huế, đã xác nhận chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa bằng một văn thư, có đoạn như sau: “Quần đảo Hoàng Sa luôn luôn thuộc về Việt Nam và đó là vấn đề không thể chối cãi được…”
Năm 1926, Ông Krempf, Giám đốc Hải Học Viện Ðông Dương đã tới quần đảo Hoàng Sa để quan sát và năm sau (tức 1927) ông phúc trình lên chính quyền bảo hộ về tài nguyên thiên nhiên tại quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1931, Pháp gửi binh sĩ đến trú đóng tại Hoàng Sa.
Năm 1932, Pháp thiết lập một ngọn hải đăng tại đảo Hoàng Sa.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, Việt Nam đã có những cơ sở hành chánh tại quần đảo Hoàng Sa: Nghị Ðịnh số 156-SC do Toàn Quyền Pháp tại Ðông Dương ký và ban hành ngày 15-6-1932 nhằm thiết lập đại lý tại đảo Hoàng Sa và đặt trực thuộc tỉnh Thừa Thiên. Sau đó, Hoàng Ðế Bảo Ðại đã ban hành Dụ số 10 ngày 30-3-1938.
Theo Giám Mục Tabert trong quyển “Ðịa dư lịch sử cảnh trí và tôn giáo phong tục tập quán các dân tộc” (xuất bản năm 1938) thì “… từ trên 34 năm rồi nhóm quần đảo Tây Sa mà người An-Nam thường gọi là đảo Cát Vàng hay Hoàng Sa thực là hòn đảo nhỏ bí hiểm, gồm những mỏm đá xen lẫn với các bãi cát mà những nhà hàng hải đều kinh hãi, đã do người Nam Kỳ chiếm cứ.” Một đoạn khác, tác giả viết:“… nhưng có điều chắc chắn là Hoàng Ðế Gia Long đã đặt đảo đó dưới quyền của nhà Vua, và năm 1816, Hoàng Ðế đã long trọng trương lá cờ Nam Kỳ ở trên đảo.”
Ngày 5-5-1939, Toàn Quyền Pháp tại Ðông Dương đã thiết lập 2 đơn vị hành chánh tại quần đảo Hoàng Sa là đơn vị Croissant (Délégation du Croissant et dépendances) tại nhóm Nguyệt Thiềm và đơn vị Amphitrite (Délégation de l’Amphitrite et dépendances) tại nhóm Tuyên Ðức.
Năm 1947, Pháp thiết lập đài vô tuyến tại đảo Hoàng Sa để bảo đảm an ninh thủy vận cho vùng Nam Hải.
Tháng 9 năm 1951, tại hội nghị San Francisco (Hoa Kỳ), trưởng phái đoàn Việt Nam đã tuyên bố trước 51 phái đoàn các quốc gia tham dự hội nghị, đại ý như sau: “Ðể cắt đứt mọi mầm mống xích mích, chúng tôi xác nhận chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà bất cứ ở thời đại nào cũng vẫn thuộc lãnh thổ quốc gia Việt Nam”.
Kể từ năm 1956, Hải Quân VNCH đã thường xuyên tổ chức các cuộc thám sát và thăm viếng quần đảo Hoàng Sa. Các chiến hạm của Hải Quân VNCH đã thường xuyên chở các toán TQLC và ÐPQ ra trấn giữ quần đảo Hoàng Sa và liên tục tiếp tế thực phẩm, quân dụng, thuốc men cho các toán này.
Ngày 13-7-1961, Tổng Thống VNCH đã ban hành Sắc Lệnh số 174-NV đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và thành lập xã Ðịnh Hải, thuộc quận Hòa Vang, tại đảo này.
Ngày 21-10-1969, Thủ Tướng Chính Phủ VNCH đã ban hành Nghị Ðịnh số 709-BNV-HC sát nhập xã Ðịnh Hải vào xã Hòa Long, thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.
Trung Cộng xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa
Năm 1956, Trung Cộng đã xâm chiếm hai hải đảo phía Bắc của quần đảo Hoàng Sa, đó là đảo Phú Lâm (Boisée) và đảo Linh Côn (Lincoln), mà không gặp một trở ngại nào. Trước tiên, chúng cho dân chài đến đánh cá vùng Hoàng Sa, rồi ghé lại các đảo này để nghỉ ngơi. Thấy không có phản ứng của Việt Nam, chúng đưa quân đội đến chiếm đóng và thiết lập các cơ sở và công sự phòng thủ. Riêng tại đảo Phú Lâm, chúng đặt cơ sở thiên văn, đài truyền tin, và hệ thống điện lực. Mục đích chính của chúng là khai thác phốt phát.
Ngày 4-9-1958, Trung Cộng ra bản tuyên bố về hải phận của Trung Cộng, trong đó bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands), tiếng Tàu gọi là Xisha (Tây Sa) và Trường Sa (Spratly Islands), tiếng Tàu gọi là Nansha (Nam Sa).
Năm 1959, Trung Cộng âm mưu chiếm nốt các đảo ở phía nam quần đảo Hoàng Sa, tức nhóm Nguyệt Thiềm, bằng cách áp dụng lại các kế hoạch năm 1956. Nhưng Hải Quân VNCH đã kịp thời ngăn chặn âm mưu này và đã bắt giữ một số ngư phủ của Trung Cộng xâm nhập bất hợp pháp hai đảo Quang Hòa (Duncan) và Duy Mộng (Drumond).
Ngày 11-1-1974, Bộ Ngoại Giao Trung Cộng lên tiếng mạo nhận chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH, ngang nhiên cho người và tàu bè xâm nhập vùng lãnh hải chung quanh các đảo Cam Tuyền (Robert), Quang Hòa (Duncan), và Duy Mộng (Drumond) thuộc quần đảo Hoàng Sa. Bọn người này đã dựng chòi và kéo cờ của Trung Cộng. Tức nước thì vỡ bờ, ngày 19-1-1974 VNCH đã ra lệnh hải chiến với tàu Trung Cộng, gọi là trận hải chiến Hoàng Sa.
Chứng liệu bán nước của CSBV
Ngày 15-6-1956, Ngoại Trưởng của CS Bắc Việt là Ung Văn Khiêm đã tuyên bố: “Hà Nội nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa”.
Ngày 14-9-1958, Phạm Văn Ðồng, Thủ tướng Chính Phủ Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa (tức Bắc Việt) đã ký văn thư gửi Chu Ân Lai, Tổng lý Quốc vụ viện (tức Thủ-tướng) của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung-hoa (tức Trung Cộng), tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Cộng quyết định về hải phận của Trung Quốc (trong đó bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam); đồng thời cam kết tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Cộng.
Kết luận
Mặc dù VC đã khép nép nhúng nhường đàn anh vĩ đại Trung Cộng từ thập niên 50, nhưng đàn anh vĩ đại Trung Cộng lúc nào cũng thèm khát và muốn chiếm hữu đàn em. Trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, không chỉ là nỗi đau riêng cho nửa nước (VNCH), mà là nỗi đau chung của toàn nước (dân tộc) Việt Nam. Ấy thế mà CSBV vẫn ngậm miệng làm thinh! Rồi đến năm 1988, chẳng đặng đừng, VC cũng đã phải nướng hơn 70 đứa con thân yêu của tổ quốc vì sự ngang ngược, trắng trợn và ngạo mạn của đàn anh vĩ đại! Sự ngang ngược, trắng trợn, ngạo mạn và thách thức ấy vẫn kéo dài cho đến ngày hôm nay mà tập đoàn cai trị CSVN vẫn bình chân như vạy! Khi sinh viên, thanh niên, và trí thức biểu tình chống Trung Cộng chiếm đoạt hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì CSVN ra lệnh đàn áp và giải tán đám biểu tình, thể theo lời yêu cầu (hay ra lệnh?) của đàn anh vĩ đại! Nếu không gọi chúng là bọn HÈN NHÁT – KHIẾP NHƯỢC – BÁN NƯỚC thì phải dùng chữ nào cho thích hợp với thái độ ươn hèn đó?
Người Việt ở trong nước bây giờ (không phân biệt trình độ học vấn, địa vị, giàu nghèo, tuổi tác…) nên noi gương ông Thân Trọng Huề, Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh của triều đình Huế, lập lại lời nói khẳng khái và chắc nịch của ông: “Quần đảo Hoàng Sa (và Trường Sa) luôn luôn thuộc về Việt Nam và đó là vấn đề không thể chối cãi được…”Và hãy dán câu này trước cửa Quốc Hội và Phủ Thủ Tướng VC cùng Tòa Ðại Sứ của TC ở Hà Nội để xem phản ứng của họ ra sao. Hãy can đảm lên! Các anh hùng hải chiến Hoàng Sa sẵn sàng phù hộ cho các bạn.
(Ðức Phố, 27-12-2007)
Vĩnh Liêm
Ghi chú: Hạm Trưởng Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ.4): HQ Trung Tá Vũ Hữu San; Hạm Trưởng Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ.16): HQ Trung Tá Lê Văn Thư; Hạm Trưởng Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ.5): HQ Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh; Hạm Trưởng Hộ tống hạm Nhựt Tảo (HQ.10): HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà (sau trận hải chiến ông được vinh thăng Cố Trung Tá; HQ Ðại Úy Nguyễn Thành Trí (Hạm Phó) được vinh thăng Cố Thiếu Tá).
_______________
tle8464953 gởi