Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh

 

Trần Mộng Tú, góa phụ 20 tuổi 3 tháng sau ngày cưới
 
TRẦN MỘNG TÚ
 
Sinh quán Hà Đông, Bắc Việt. Lớn lên ở Hà Nội, rồi Hải Phòng, năm 1954 di cư vào Nam. Từ 1968 tới 1975 làm nhân viên hãng thông tấn The Associated Press Sài Gòn. Di tản sang Mỹ tháng Tư năm 1975. Ở hải ngoại, Trần Mộng Tú cộng tác với các tạp chí văn học và trang mạng ở Mỹ và các nước khác. Trần Mộng Tú hiện sống với gia đình ở một vùng ngoại ô yên tĩnh bên ngoài Seattle, tiểu bang Washington, Tây Bắc Hoa Kỳ. Bước qua tuổi “cổ lai hy”, TMT vẫn làm thơ, viết văn, và mỗi cuối tuần cùng chồng tới nhà thờ làm công tác thiện nguyện.
 
TMT VỚI MỘT TIỂU SỬ THƠ
 
Người Đàn Bà Thi Sĩ Việt Nam:
 

 
Tôi người đàn bà thi sĩ Việt Nam
 
Bỏ lại trên quê hương
 
Một mối tình
 
Một mối tình được gắn huy chương
 
Huy chương anh dũng bội tinh…
 

 
Tôi người đàn bà thi sĩ Việt Nam
 
Đang sống trên đất Mỹ
 
Chồng tôi người bản xứ
 
Chúng tôi có ba con chưa đến tuổi thành niên
 
Đời sống êm đềm
 
Trong một thành phố nhỏ…
 
Tmt
 
TÁC PHẨM TMT ĐÃ XUẤT BẢN
 
Tiếng Việt:
 
(1)Thơ Trần Mộng Tú (Tập Thơ-1990) Nxb Người Việt. (2) Câu Chuyện Của Lá Phong (Tập Truyện Ngắn-1994) Nxb Người Việt. (3) Để Em Làm Gió (Tập Thơ-1996) Nxb Thế Kỷ 21. (4) Cô Rơm và Những Truyện Ngắn (Tập Truyện Ngắn-1999) Nxb Văn Nghệ. (5) Ngọn Nến Muộn Màng (Tập Thơ-2005) Nxb Thư Hương. (6)  Mưa Sài Gòn Mưa Seattle (Tập Truyện- 2006) Nxb Văn Mới. (7) Vườn Măng Cụt (Tập Truyện Ngắn và Tản Văn – 2009 Nxb Văn Mới). (8) Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm (Thơ 1969-2009- Tác Giả Xuất Bản).  (9) Blog: tranmongtu.blogspot.com
 
Tiếng Anh:
 
(1) Visions of War, Dreams of Peace, Writings of Women in the Vietnam War. Warner Books 1991. (2) American Literature Textbook, Glencoe / McGraw-Hill, A Division of McGraw-Hill Companies, 2000. (3) An Anthology of Vietnamese Poems: From the Eleventh through the Twentiedth Centuries. Yale University Press, New Haven and London, 2001. (4) The Defiant Muse (The Vietnamese Feminist Poems), The Feminist Press and The Women’s Publishing House Hanoi, Vietnam 2007.
 
Các bài thơ được phổ nhạc:
 
1/ Dòng Sông Đứng Lại (nhạc Phạm Anh Dũng). 2/ Tháng Mười Hoa Cúc (nhạc Phạm Anh Dũng). 3/ Quà Tặng Chiến Tranh (nhạc Phạm Anh Dũng). 4/ Tháng Mười Hoa Cúc (nhạc Hoàng Quốc Bảo). 5/ Quán Lạ (nhạc Hoàng Quốc Bảo). 6/ Giọt Tình Sầu (nhạc Nam Lộc). 7/ Gọi Anh Mùa Xuân (nhạc Anh Bằng). 8/ Nhân Chứng (nhạc Vũ Tiến Dũng). 9/ Chia Tay (nhạc Nhật Ngân).10/ Kiếp Sau (nhạc Nhật Ngân). 11/ Thanh Xuân (nhạc Nguyễn Tuấn).12/ Mùa Thu Paris (nhạc Nguyễn Minh Châu).13/ Dòng Sông Đứng Lại (nhạc Lê Thanh Cảnh). 14/ Ngọn Nến Muộn Màng (nhạc Lê Thanh Cảnh).15/ Tháng Tư Nhuộm Tóc (nhạc Lê Thanh Cảnh). 16/ Quà Tặng Trong Chiến Tranh (nhạc Nguyễn Ngọc Tiến).
 
***
 
Trần Mộng Tú làm thơ, viết truyện ngắn, tùy bút, làm báo. Sự nghiệp văn học của Trần Mộng Tú chủ yếu là thơ. Thơ của Trần Mộng Tú gồm nhiều thể loại: thơ tình, thơ thời sự, với tình yêu thương sâu sắc trước các thảm kịch như chiến tranh Trung Đông, khủng bố 911 ở Mỹ (Trả lại tôi), 39 thùng nhân chết trên con đường kiếm sống (Tôi không thở được), thảm họa môi sinh Formosa với hàng loạt cá chết (Gửi người em Vũng Áng)…
 
Văn chương của Trần Mộng Tú thanh thoát. Ở đó không hề có bóng dáng của thù hận; và với thể loại nào cũng thấm đẫm những tình cảm đôn hậu, yêu thương, rất Trần Mộng Tú.
 
TÌM LẠI THỜI GIAN ĐÃ MẤT 1968 TRẦN MỘNG TÚ VÀ CƠ DUYÊN VỚI AP SAIGON
 
Sau khi thi đậu tú tài 2, Trần Mộng Tú vẫn đi học thêm Anh văn ở mấy lớp dạy tư. Khi Ba Tú về hưu, Tú muốn đi làm thêm phụ giúp gia đình. TMT có một thời gian ngắn đi làm trong PX Ambassador. PX này dành riêng cho sĩ quan cao cấp và nhân viên ở Tòa Đại Sứ. Tuy Ba là công chức, làm ở sở Địa Chánh, tiếng là ông Tham, ông Phán nhưng lương hưu cũng chẳng có nhiều.
 
TMT có khiếu về ngôn ngữ, nói và nghe tiếng Anh tốt nhưng không biết nhiều về báo chí. Khi đó, nhân có một người anh họ tên Đinh Văn Ngọc, vừa đang học Luật vừa làm cho AP, bị động viên năm 1968. Anh ấy nói: “Em vào đây học tiếng Anh nhanh hơn ở trường, cứ thử đi.” Rồi anh ấy mang cô em vào giới thiệu. Lúc đó Tú cũng liều, đâu biết là cả AP bao nhiêu năm nay toàn đàn ông không có phụ nữ nào cả. Tú nghĩ chắc lúc đó ông Bureau Chef muốn có một cô vào làm, như cần một bông hoa trang trí cho văn phòng”. Làm ở AP, Tú đã học được rất nhiều. Lương lại cao hơn những việc khác. Việc làm có phẩm chất, hơn nữa sau giờ trưa, ông Bureau Chef AP còn cho Tú 2 giờ đi học thêm tiếng Anh.
 
Văn Phòng AP trong Passage Eden trên lầu 4, phòng 420-422. Nơi còn có các văn phòng của đài truyền hình NBC, của tuần báo nổi tiếng US World and News Report. TMT có rất nhiều kỷ niệm với Passage Eden, với tiệm kem Givral – nơi góc đường Tự Do và Lê Lợi.
 
Nơi mỗi lần Thái Hoàng Cung, người yêu đến đón, buổi trưa về nhà anh ăn cơm, thỉnh thoảng hai người vào ăn kem hay mua bánh mang về. Tuy chưa cưới nhau, nhưng TMT đã được mẹ Cung – một nhà giáo nổi tiếng nghiêm khắc, khi ấy bà đang làm Giám thị Đại học xá nữ Thanh Quan trên đường Trần Quý Cáp. Bà rất thương cô con dâu tương lai và đã coi TMT như một đứa con trong gia đình.
 
1968 TÌNH YÊU ĐẦU ĐỜI ĐẸP NHƯ MƠ
 
Do hai gia đình có hai bà mẹ thân nhau, TMT và Thái Hoàng Cung có dịp quen nhau từ hồi trung học. Cung là con thứ hai trong một gia đình ba anh em trai. Ba Cung nguyên là nhà giáo dạy tiếng Pháp, mở một trường học ở Nam Định, ông bị Việt Minh bắt và thủ tiêu trong thời gian cuộc kháng chiến chống Pháp.
 
Lúc đó mẹ Cung cũng là nhà giáo, còn rất trẻ đã sớm góa bụa, bà đem ba đứa con về Hà Nội, đứa lớn nhất lúc đó chỉ mới 10 tuổi, bà vừa đi dạy học vừa bươn chải nuôi nấng ba con. Vì không biết ngày chồng chết, bà lấy ngày ông bị Việt Minh bắt đi làm ngày giỗ. Rồi tới năm 1954, sau Hiệp định Genève, bà lại dẫn ba con di cư vào Nam.
 
Cung học xong năm cuối trường Jean-Jacques Rousseau, sau tú tài 2, Cung chọn thi vào trường Đại học Sư phạm, tốt nghiệp ban Pháp văn, được bổ nhiệm đi làm giáo sư dạy tiếng Pháp trong một trường trung học nhỏ ở miền Tây, nhưng chưa được một năm thì có lệnh tổng động viên sau trận Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968.
 
Sau khi học xong khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức, trước khi ra đơn vị, Cung xin gia đình cha mẹ TMT cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, TMT có chồng từ tháng 6-1968.
 
NỖI KHẮC KHOẢI CỦA MỘT CHINH PHỤ
 
1968 BUỔI TRƯA SÀI GÒN
 
Mùa mưa đang về giữa Sài Gòn
 
con đường Tự Do vỡ òa bong bóng
 
em đi dưới trời mưa
 
Em nhớ anh
 
em khóc
 
Những chiếc taxi nằm im
 
Sài Gòn trong mưa
 
Sài Gòn buổi trưa
 
Sài Gòn như nỗi chết
 
Sao anh còn trẻ thế
 
Sao em còn trẻ thế
 
Sao tình yêu hai ta còn trẻ thế
 
lại lăn vào
 
một cuộc chiến già nua
 
Bây giờ một người lính mới
 
cầm cây súng cũ xì
 
ở tận chi khu Trà Bồng
 
một địa danh nghe mà
 
ngơ ngác
 
Bây giờ một người con gái
 
cầm trái tim mình bằng cả hai tay
 
đi dưới cơn mưa
 
đầy bong bóng nước
 
Ôi Sài Gòn buổi trưa
 
Em nhớ anh
 
Em nhớ anh
 
em khóc.
 
Trần Mộng Tú. 1968
 
__________
 
1969 BẢN TIN TRONG NGÀY
 
Em đi trong thành phố
 
mùa đông đến sau lưng em
 
gió thổi trên nóc nhà thờ Đức Bà
 
em se mình trong chiếc xích lô
 
Bản tin em lấy về sáng nay ở Nha Báo Chí
 
số chết của ta và địch
 
chia đôi rất công bình
 
Ở tòa báo em làm
 
những người phóng viên
 
đang thu xếp ngày mai ra Đà Nẵng
 
không có ai đi Kiên Giang*
 
làm sao em gửi được cho anh
 
một nụ hôn vào chiếc bao thư
 
làm sao em gửi được cho anh
 
những giọt nước mắt sáng nay của em
 
vào trong bao thuốc lá
 
Em se mình trong tòa báo
 
hoang mang
 
cúi xuống một bản tin mới ra
 
Trưa nay
 
Ta chết nhiều hơn địch
 
Em gọi trong lồng ngực đáng thương của mình
 
Ôi anh!
 
Ôi anh!
 
Ôi anh!
 
Buổi chiều
 
em trở về
 
chiếc xích lô vẫn còn đầy gió.
 
Trần Mộng Tú – Tháng 3-1969
 
1969 TANG TÓC BA THÁNG SAU NGÀY CƯỚI.
 
“Buổi tối của một ngày đầu tháng 8 năm 1969, khi tôi – TMT – đang ngồi xem những tấm ảnh màu đám cưới gửi từ Mỹ về, sắp xếp để làm một cuốn album, thì nghe tiếng chuông cửa. Tôi ra mở cửa, hết sức ngạc nhiên khi thấy Carl và anh Huân là hai người ở Sở trước mặt. Anh Huân làm phòng tối, phụ trách về rửa phim, in hình và Carl vừa là phóng viên vừa là nhiếp ảnh viên.
 
Cả hai người này chẳng bao giờ đến nhà tôi vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi làm. Tôi lúc đó làm thư ký cho hãng thông tấn The Associated Press, công việc của tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hãng: từ phát lương cho nhân viên, giữ sổ chi thu, mua bán hình ảnh, thư ký cho ông chánh văn phòng, đi nghe họp báo bỏ túi, v.v... Những việc này không bao giờ phải làm cuối tuần, cũng như không bao giờ làm ca đêm.
 
Cả hai người bước vào buồng khách, cả hai nhìn tôi, rồi cả hai nhìn nhau, không ai muốn là mình nói trước. Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng không hiểu chuyện gì. Cuối cùng Carl nói: “Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của cô đã tử trận.”
 
Tôi đứng ngẩn người, nhìn lại cả hai, không nói được tiếng nào, Carl nói tiếp: “Suốt từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang), xác định tin rõ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị của Đại học xá Trần Quý Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi.” Tôi ngồi xuống hai gót chân mình, không nghe được gì tiếp, ngoài tiếng xôn xao của cha, mẹ và gia đình.
 
Chúng tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng 7 năm 1969. Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, ban Pháp Văn và đã đi dạy được một năm, anh bị gọi trong chương trình Tổng Động Viên. Khi nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968.
 
Lúc làm đám hỏi chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở chi khu Trà Bồng), chỉ có mẹ chồng mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà, làm sao được. Sau đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung được biệt phái về dạy học lại, (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức được về vào tháng 10/1969) rồi sẽ ra ở riêng.
 
Chiếc máy bay vận tải Mỹ đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ. Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài.
 
“Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sài Gòn.”
 
Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay để giữa lòng phi đạo. Anh chồng tôi dặn: “Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ.”
 
Buổi trưa tháng Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói chang trên sân bay, cái sân bay rộng lớn chổng chơ một chiếc áo quan có phủ xộc xệch lá quốc kỳ, mấy giọt nến đóng thành mảng khô cứng trắng đục trên màu vàng của lá cờ, một vài chiếc lá quăn queo sót lại của vòng hoa chiều qua còn dính ở đó. Tôi tự thấy mình bé nhỏ, mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt, áo nhàu nát, tóc bơ phờ, mặt ngơ ngác đứng nhìn chung quanh mình.
 
Cái sân bay trông sao mông mênh thế mà cái áo quan thì bé tí, tôi đứng bên cạnh trông lại càng bé hơn. Sân bay không một bóng người, vài ba chiếc máy bay quân sự đậu rải rác bên cạnh những phuy dầu chưa kịp xếp vào kho. Hình như đã có mùi hôi bốc ra từ áo quan, tôi đứng lui ra một tí nữa, xoa tay lên ngực, thấy mình nghẹn thở, ngực nặng và đau buốt, đau thấu xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.
 
Hai ngày, một đêm ở Kiên Giang đã làm tôi đuối sức. Tôi có làm gì đâu. Tôi chỉ không ăn, không ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc trong người tôi không còn nước. Bà mẹ chồng một bên, ông anh chồng một bên, họ đổ sữa ông Thọ cho tôi. Bà mẹ chồng tôi thật giỏi, bà có kinh nghiệm với chiến tranh, kinh nghiệm với chết chóc, nên đi đón xác con mà bà còn nhớ đem theo hộp sữa ông Thọ cho cô con dâu tiểu thư, cô con dâu còn mới như vuông lụa chưa thêu.
 
“Con uống đi. Con mà gục xuống đây nữa thì mẹ biết nói làm sao với cha mẹ con.”
 
Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác xếp chất lớp trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ đỉnh đầu xuống hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên ngoài để vào bên trong chỗ người ta để xác sĩ quan.
 
Tôi đã phải bước qua từng cái túi có bọc thây người ở trong, có cái thòi hai bàn chân còn nguyên đôi giày saut ra một đầu, có cái thì lòi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất, có cái thòi nguyên một khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn. Tôi đi theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đã làm tôi không còn cảm giác nữa. Không biết tôi có giẫm phải ai không. Tôi cố gắng không giẫm lên những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong thì tôi có nhìn thấy gì đâu. Tôi chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo: “Đúng là Cung rồi.”
 
Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài. “Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sài Gòn.” [5]
 
Tôi thấy hình như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió ở sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nhìn xuống. Tôi thấy một dòng nước đục chảy lờ đờ bên dưới. Thì ra nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông. Tôi không dám nhìn vào những người đàn bà đang đi lật từng cái poncho quấn thây người để tìm chồng, tìm con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi còn may mắn hơn họ.
 
Người ta đem xác Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bày đứng cạnh áo quan cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc thì tôi đứng nhìn mấy cây nến chảy, nhìn vòng hoa đã bắt đầu héo, có cả chén cơm đã khô và quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng vì không thấy tôi khóc để có dịp nói lời an ủi.
 
Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy sang thăm hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy con chó gầy trơ xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra ngoài, mũi thò lò cũng chẳng chùi. Chúng tròn mắt nhìn mấy người Sài Gòn, mặt mũi có vẻ khang khác với những người trong trại lính này. Có người cũng từ xa đến chưa tìm ra xác chồng, xác con đến hỏi han bà mẹ chồng tôi với con mắt nặng trĩu và gương mặt thất thần.
 
Tôi đứng đó lơ mơ, nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể một cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em tôi vẫn thường tranh nhau nói như thế. Hình như họ nói về trận đánh ngay ở xã Vĩnh Thanh Vân. Xã này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi, và vẫn còn đánh nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ thế nào cũng gặp, họ bảo nhau:
 
“Không thấy người thì thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!”
 
Người anh chồng thì thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi tìm cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác chỉ có ba người trong gia đình này ít khóc nhất. Bà mẹ chồng tôi thì vừa mếu máo vừa lo xin nước sôi pha sữa cho con dâu uống. Con bé này vốn đã gầy, hai hôm rồi nó chẳng ăn, chẳng nói gì làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ lính đang khóc ngoài kia thì bà lại đỡ lo. Không biết còn kẹt ở đây đến bao giờ?
 
Bằng vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho bà quá giang máy bay quân sự về Sài Gòn, rồi bà sẽ thuê máy bay dân sự xuống đây đón mấy đứa con. Bà giỏi lắm. Mấy chục năm trước, còn trẻ măng mà bà đã một mình thuê đò ở Nam Định đi tìm chồng. Chồng bà đang đêm được Việt Minh đập cửa mời đi, rồi cả tháng không thấy về. Ông được mời vì lúc đó ông có một ngôi trường nhỏ dạy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đò, đi bộ cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin tức chồng.
 
Họ bảo về đi, bắn chết rồi. Bà lại thuê đò về, tính ngày đi của chồng dùng làm ngày giỗ vì bà không biết ông bị xử bắn vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất chưa quá 10 tuổi tìm đường ra Hà Nội. Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con di cư vào Nam.
 
Ai làm được gì thì bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước mắt thì vốn chóng khô vì nó không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả ít một. Chảy suốt một đời. Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, còn trẻ lắm, lại chưa có con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với bà, cô còn may mắn chán.
 
Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên được máy bay về trước các con một hôm thì cũng bị thả xuống phi trường Bình Thủy đêm hôm đó, máy bay không về đến Sài Gòn. Một cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống làm bà ướt sũng, thất thểu tìm một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đò về Sài Gòn. Trong khi đó thì các con của bà: con sống, con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy nắng.
 
Cuối cùng thì cũng đưa được quan tài về Sài Gòn. Khi xuống đến phi trường Tân Sơn Nhất thì cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim cho chiến tranh thì hay quá. Cái quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhàu nát, xộc xệch, cô đơn, đã đủ vẻ tang thương. Hai nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang hay diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng mảnh như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên, quay họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.
 
Sau này tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà mình tỉnh khô như vậy, sao mình không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường? Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.
 
Một chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh viện Grall. Đã bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà còn xin được miếng đất chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang Quân Đội thì làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên được.
 
Họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nhìn chỗ mình đã sống, đã lớn lên một lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở nhà thì phải ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế! Tôi thấy những người lân cận và một vài người họ hàng đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà. Họ nhìn tôi, nhìn quan tài như xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái cảnh này những năm gần đây. Tôi còn trẻ quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ anh ta.” [5] [Bình Thủy, 1969]
 
1970 TRẦN MỘNG TÚ TRỞ LẠI SỐNG VỚI BÌNH THƯỜNG MỚI
 
Cho dù có chồng chất đau đớn và tang thương đến thế nào, cuộc “chiến tranh già nua”  ấy – chữ của TMT, vẫn cứ lạnh lùng tiếp diễn, với vô số đạn bom vô tri của cả đôi bên. Mỗi ngày Sài Gòn, và cả trên khắp nẻo đường đất nước, vẫn có thêm bao nhiêu vành khăn tang mới và rồi họ vẫn cứ phải sống.
 
Sau khi Cung mất, TMT trở lại đi làm cho AP, vẫn được cả hãng quý mến, họ mừng đám cưới rồi sau đó lo đám tang cho chồng TMT, chỉ cách nhau có ba tháng. Vì mẹ TMT và mẹ Cung thân nhau nên liên hệ hai gia đình không có gì thay đổi từ ngày Cung mất. Trong suốt 7 năm còn ở Việt Nam, mỗi trưa đi làm ra TMT đều về nhà ăn cơm với Mẹ Cung, nếu không phải ngày đi học thì ra nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi thăm mộ chồng, sau đó mới trở lại Sở làm.
 
Trở lại với Văn phòng AP ở Sài Gòn. Cứ 2 năm office thay một ông Bureau Chef mới. Ông nào cũng quý mến và bảo vệ người con gái duy nhất kém may mắn của AP. Tuy không phải là nhà báo, TMT đôi lần cũng được đi du lịch nước ngoài, sang Mỹ, rồi sang Nhật với danh nghĩa ký giả AP ở thời điểm 1971- 1972, hồi đó ra nước ngoài rất khó. TMT đi rồi lại về, không hề nghĩ chuyện ở lại Mỹ. Ba Tú thương con gái, cứ dặn đi dặn lại: “Con đi chơi rồi về chứ đừng ở lại một mình xứ người.”
 
Hàng ngày tiếp xúc với các ký giả, phóng viên nhiếp ảnh từ các nơi tới, từ Mỹ sang. Họ đến rồi đi, Tú chưa hề nghĩ mình sẽ lập gia đình với một người nước ngoài. Ngay cả sau khi người chồng mới cưới của TMT tử trận, TMT cũng dửng dưng với những ký giả muốn làm thân.
 
Tuy không phải ký giả nhưng đôi khi TMT cũng phải chạy tới mấy nơi có họp báo để lấy tài liệu, ghi notes nếu các ký giả ra chiến trường hết. Có lúc Office vắng tanh cả tuần liền, chỉ còn Tú và ông Chánh Văn Phòng, TMT phải lo mọi việc từ mua hình, chạy đi lấy bản tin đến họp báo bỏ túi. Mấy photo stringer [chụp hình nghiệp dư] Việt Nam thì thích gặp Tú lúc tới bán hình vì bao giờ Tú cũng trả thêm cho họ, thay vì 20 US$ cho một tấm hình, Tú trả cho họ 25 US$ – trong đó có nhà báo Nguyễn Tú A, mà Tú còn nhớ.
 
Từ một cô học trò mới xong Trung Học, TMT rơi ngay vào môi trường báo chí của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. TMT học được nhiều giữa chiến tranh và đời sống. TMT nghĩ cũng nhờ đó mà Tú trưởng thành trong cách viết về chiến tranh sau này. Thỉnh thoảng TMT cũng sang văn phòng Tuần báo TIME bên khách sạn Continental để đưa hay lấy một tài liệu gì đó, gặp nhà báo Phạm Xuân Ẩn. Mẫu người khắc khổ, ít nói nhưng Tú nhớ mỗi lần gặp, Phạm Xuân Ẩn tuy không cười nói vồn vã, nhưng thường nhìn Tú bằng ánh mắt hiền từ, không thấy giống điệp viên 007 chút nào.
 
TMT học việc rất nhanh. Chỉ khó khăn lúc đầu, thỉnh thoảng khi có biểu tình dưới phố, ngay trước tòa nhà Quốc Hội, mấy ký giả Mỹ lôi Tú xuống nhờ dịch mấy biểu ngữ, Tú lúng túng vô cùng vì không biết danh từ chuyên môn tiếng Anh về Đả Đảo, Hoan Hô. Dần dần làm lâu, nghề dạy nghề, cũng thông thạo. Bây giờ thì quên nhiều lắm rồi. Thỉnh thoảng, tòa soạn AP trống trơn, các ký giả ra chiến trường hết, nếu có “Họp Báo Chớp Nhoáng” bên MACV hay bên Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, Chánh Văn Phòng cử TMT đi, Tú cũng biết ghi lại để mang về office cho ông.
 
BẦY CHIM BỎ XỨ * [tên một tổ khúc của nhạc sĩ Phạm Duy]
 
NHỮNG NGÀY ĐẦU DI TẢN –  TRẦN MỘNG TÚ VÀ FRANK
 
Hơn ai hết, giới truyền thông báo chí Mỹ đã biết rất rõ số phận những ngày tháng Tư cuối cùng của Sài Gòn; và chuyến bay đầu tiên di tản nhân viên của hãng Thông tấn AP là vào ngày 21/4/1975.
 
Nhóm Việt Nam được di tản sớm gồm có: Trần Mộng Tú và ba mẹ, cùng với Nick Út, và gia đình Đặng Văn Phước. Khi tới Mỹ, họ được đưa ngay vào khu tạm trú ở Camp Pendleton – là một trại lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ gần San Diego. Do TMT có một người bạn tên John Parkson, trước làm cho NBC Sài Gòn, có văn phòng ngay cạnh AP, anh ấy mang theo người vợ Nhật vào trại thăm, thấy TMT có cha mẹ già nên muốn bảo lãnh cho ra ngay.
 
TMT và ba mẹ ra trại ngày thứ Sáu 13/6/75, và ở nhà người bạn đó, nơi thành phố Encino, California. Mới được hai tuần lễ, thì có một ngân hàng Nhật tên Sumitomo Mitsui trên đường Figueroa, Los Angeles có opening cần mướn một thâu ngân viên / bank teller, TMT nộp đơn tới phỏng vấn, cùng với hai cô người Mỹ khác, may mắn sao họ nhận TMT, có lẽ thấy Tú là người Á Đông, lại thông thạo Anh Ngữ.
 
Cũng người bạn NBC ấy đã thuê cho gia đình TMT một apartment gần World Trade Center trên đường Figueroa nơi có ngân hàng Mitsui. TMT có thể từ nhà đi bộ tới chỗ làm việc vì lúc đó làm gì có xe, và cũng chưa đi học lái xe. Có việc thì mừng lắm, đi làm ngay nhưng TMT không biết là cô có thể hưởng trợ cấp và đi học miễn phí. Nếu biết, Tú chắc sẽ đi học một nghề gì đó.
 
Trừ Nick Út vì có giải Pulitzer (1973) với tấm ảnh “Em bé Napalm” được giữ lại làm phóng viên ảnh cho AP. Đặng Văn Phước, phóng viên nhiếp ảnh khác cũng được giữ lại nhưng anh Phước bị gửi sang Hong Kong, do vất vả quá, nên xin thôi AP và trở lại Mỹ.
 
Các nhân viên khác thì AP cho nghỉ việc, mỗi người được AP cấp cho một số tiền là 3.000 USD, rồi tự túc sau đó. [Theo chuyên gia ngân hàng Võ Tá Hân, thì số tiền đó khá lớn, nếu tính theo thời giá bây giờ là khoảng hơn 16.000 USD].
 
TMT vẫn tin rằng mọi việc do Trời sắp đặt cả. Khi ấy, trong building có một chàng trai Mỹ tên Frank – có cha gốc người Anh và mẹ gốc Ái Nhĩ Lan, cũng mới dọn vào trước đó một tháng. Anh ấy vừa từ Orange County lên, và mới vào làm công chức. Hai người thỉnh thoảng gặp nhau ở khu Mail Box trong chung cư. TMT hỏi han đường xá, Frank tận tình chỉ dẫn, thấy Tú có cha mẹ già và nhà chưa có xe nên anh nhận đưa cha mẹ Tú đi nhà thờ cuối tuần, anh cũng là người theo đạo Thiên Chúa.
 
Rồi hai người, TMT và Frank nên duyên vợ chồng. Tháng 9/1976 – 7 năm sau ngày Cung mất, Frank và Tú chính thức lập gia đình, sau này TMT mới biết Frank nhỏ hơn 5 tuổi.
 
Lúc lập gia đình TMT gần như hai bàn tay trắng nhưng có được việc làm. Hai vợ chồng thuê apartment để ở. Khi sanh con đầu lòng, mẹ chồng cho tiền down mua căn nhà đầu tiên, hàng tháng chỉ trả ít, không phải cố gắng. Frank là người sống rất giản dị và chăm làm, anh nói Tú ở nhà trông con, một mình anh đi làm là đủ.
 
TMT vẫn nhớ câu anh nói: Nếu em không muốn con em đưa em vào nhà dưỡng lão thì cũng không gửi con vào nhà trẻ. TMT ở nhà đến khi cháu út 11 tuổi Tú mới đi làm trở lại. Công việc mới sau này là thông dịch viên hữu thệ, khó thi vào nhưng TMT đã vượt qua, và làm công việc ấy trong lãnh vực y tế cho đến lúc nghỉ hưu.
 
Frank tốt nghiệp Đại học Công Giáo Loyola Chicago, có cử nhân toán, ban đầu đi làm công chức trong lãnh vực kế toán, nhưng than công việc chán quá! TMT bàn với chồng: anh nên đi học về computer, Tú nghĩ sẽ thích hợp hơn với anh. Lúc đó là thập niên 1980, môn học này tương đối rất mới. Frank nghe lời vợ, xin thôi đi làm.
 
TMT bán nhà, trả hết tiền gốc, còn được bao nhiêu, hai vợ chồng dùng nửa số tiền đó down mua một căn nhà khác nhỏ hơn, số tiền còn lại cho Frank đi học. Frank học 6 tháng về Computer Programmer xong, có việc ngay, lương khá. Tú nói chưa được, anh phải vừa đi làm, vừa đi học thêm sao cho tương đương với trình độ 4 năm. Frank nghe, đi làm ra, đến UCLA học thêm, hết khóa này đến khóa khác.
 
Vẫn với bản năng đảm đang của người phụ nữ Việt Nam, chỉ biết lo cho chồng cho con. Tối nào sau khi dỗ cho con ngủ, TMT cũng đợi chồng tới 11 giờ khuya, tới khi chồng về cùng ăn bữa tối, mới đi ngủ. Frank sẵn giỏi toán, vào ngành điện toán như cá gặp nước. Đi làm ở đâu cũng thành công, và là nhân viên chính của hãng.
 
Đến bây giờ Frank vẫn nói: nhờ vợ mới có công việc thích hợp. Cũng để thấy, phụ nữ Việt Nam biết lo cho chồng con và xoay sở trên đất người như thế nào.
 
Khi TMT bị đẩy ra khỏi nước, cả gia đình Cung cũng ra đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung cũng chẳng khác gì những người còn sống, cũng bị chiếm đoạt tài sản, cũng bị đuổi nhà. Ngôi mộ Cung trên miếng đất đã được Mẹ mua cho trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi cũng bị dời đi. Người anh họ còn ở lại, tìm cho anh một nơi cư ngụ mới trong nhà thờ Tân Định.
 
SEATTLE ĐẤT LÀNH CHIM ĐẬU 1988
 
Sau 13 năm sống ở California. Năm 1988, Trần Mộng Tú ở tuổi 45, đã cùng gia đình dọn về sống ở Seattle, tiểu bang Washington. Nơi có không khí trong lành và cuộc sống bình yên hơn Los Angeles. Cùng với năm tháng êm đềm trôi qua, ba đứa con đều đều tới tuổi trưởng thành: hai trai, một gái và các cháu nội ngoại và rồi ra ở riêng.
 
Frank không chỉ là người chồng mà còn là một người bạn. Frank quý mọi người và không kỳ thị. Anh tôn trọng những người bạn Việt Nam của TMT. Tới mức có một người bạn văn của TMT phải khen: Frank hiền như một ông thánh. TMT thì không nghĩ như vậy, vì ông thánh ấy cũng có lúc “biển động, núi gầm” nhưng do cả hai quan tâm tới nhau, tương kính như tân, và họ biết nhường nhịn, biết trân quý những ngày êm ả.
 
Về sở thích văn chương của TMT, Frank tuy không chia sẻ được trong việc sáng tác, nhưng khuyến khích và hỗ trợ vợ tối đa. Căn nhà rộng, hai vợ chồng mỗi người một phòng. Frank có master bedroom làm office luôn. TMT có một phòng và một office. Vẫn dư một phòng nên TMT làm thành phòng đọc sách kiểu Nhật. Chiếu trúc, gối trúc mang từ Việt Nam về.
 
Ở cửa phòng viết của TMT, Frank treo một dòng chữ viết tay ‘Quiet! Poet at work’ khi Tú ở trong đó, để các con không làm phiền mẹ.”
 
TMT tin vào số phận, nghĩ rằng Thượng Đế đã viết cho mỗi người một kịch bản, mình cứ thế mà theo mà đóng vai trò đã định sẵn, thế thôi. “Tôi cám ơn Thượng Đế đã tạo ra tôi là một người biết yêu chữ nghĩa, nhất là yêu Thơ”.
 
NHÀ THỜ TÂN ĐỊNH SÀI GÒN 23 NĂM SAU [11-1998]
 
… “Lần đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi tìm Cung ở nhà thờ Tân Định.Tôi đi len lỏi giữa những dãy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ.
 
Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.
 
Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến.” [Bình Thủy tháng 8-1969, Tân Định, tháng 11-1998] [5]
 
THƠ TRẦN MỘNG TÚ TRONG SÁCH GIÁO KHOA MỸ NĂM 2000
 
Có ba sự kiện đáng nhớ năm 2000 trong sự nghiệp văn học của TMT:
 
Từ năm 2000, có một giai đoạn Trần Mộng Tú viết truyện nhi đồng cho báo Los Angeles Times;
 
Có thơ Anh ngữ trong sách giáo khoa Mỹ cho chương trình trung học (American Literature – Glencoe – 1999).
 
Chủ Bút Nguyệt San Phụ Nữ Gia Đình Người Việt ở California. (2002 – 2005).
 
Trong bộ sách giáo khoa Glencoe Literature, trước khi giới thiệu bài thơ “Quà Tặng Trong Chiến Tranh, qua mục “Gặp Trần Mộng Tú”, tác giả bài thơ được giới thiệu như sau:
 
Trần Mộng Tú người có trải nghiệm trực tiếp với chiến tranh, đã phát biểu: “Chiến tranh là điều khủng khiếp”. TMT sinh ở Hà Đông, Bắc Việt Nam. Cô và gia đình di cư vào Nam năm 1954. Do cuộc chiến tranh Đông Dương, Pháp đã bị lực lượng cộng sản đẩy ra khỏi Việt Nam. Rồi Miền Nam Việt Nam cũng không yên ổn được bao lâu, và một cuộc nội chiến nổ ra giữa cộng sản và người quốc gia không cộng sản.
 
Tới thập niên 1960s, khi Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp vào cuộc Chiến tranh Việt Nam, thì TMT làm việc cho hãng thông tấn AP ở Sài Gòn. Khi Hoa Kỳ rút quân ra khỏi Việt Nam năm 1975 [thực sự Hoa Kỳ đã rút quân ra khỏi Việt Nam từ 1972, ghi chú của người viết], AP đã di tản nhân viên Việt Nam của họ do sợ bị cộng sản trả thù, TMT và gia đình cùng với nhiều ngàn người Việt khác đã tỵ nạn sang Hoa Kỳ. Từ bậc tiểu học, TMT đã mơ trở thành nhà văn, nhưng thơ văn của TMT chỉ thực sự được xuất bản tại Hoa Kỳ. Hiện nay TMT làm thơ, viết truyện ngắn cho các nhà xuất bản văn học tiếng Việt tại Hoa Kỳ và hải ngoại. TMT sinh năm 1943.” [3]
 
Phần tiểu sử Trần Mộng Tú trong cuốn sách Giáo khoa Glencoe  (2000), phải nói là thiếu sót, chỉ ghi cô làm cho hãng thông tấn AP và làm thơ, nhưng đã không nói tới một sự kiện quan trọng ảnh hưởng trên suốt cuộc đời TMT, là cô trở thành quả phụ ở tuổi mới ngoài 20, khi người chồng mới cưới của cô đã tử trận chỉ 3 tháng sau ngày cưới.
 
Một chi tiết nữa khá quan trọng, là bài thơ Quà Tặng Trong Chiến Tranh bản gốc tiếng Việt là cuộc đối thoại đau xót giữa hai người: cô gái trẻ TMT và người chồng mới cưới vừa tử trận, nhưng bản dịch bài thơ sang tiếng Anh có đoạn lại trở thành cuộc độc thoại của “ngôi thứ nhất”. Sự sơ sót ấy vẫn lặp lại trong hai cuốn sách giáo khoa Mỹ xuất bản cách nhau 9 năm, [Visions of War 1991, và Glencoe Literature 2000].
 
Một bản dịch “Quà Tặng Trong Chiến Tranh” của Đặng Vũ Vương đúng với tinh thần nguyên bản tiếng Việt nhưng là 57 năm sau (1969 – 2023):
 
QUÀ TẶNG TRONG CHIẾN TRANH
 
GIFTS IN WARTIME
 
Em tặng anh hoa hồng
 
my gift to you a rose
 
Chôn trong lòng huyệt mới
 
to bury it inside the newly dug grave
 
Em tặng anh áo cưới
 
my gift to you my wedding dress
 
Phủ trên nấm mồ xanh
 
to drape it over the new green tomb
 
Anh tặng em bội tinh
 
you gave me the silver star
 
Kèm với ngôi sao bạc
 
that came along with the military medal
 
Chiếc hoa mai màu vàng
 
and the insignia of yellow apricot flowers
 
Chưa đeo còn sáng bóng
 
that are still shiny for being never worn
 
Em tặng anh tuổi ngọc
 
I gave you the jade-quality time
 
Của những ngày yêu nhau
 
Of the days of us loving each other
 
Đã chết ngay từ lúc
 
that died right away at the moment
 
Em nhận được tin sầu
 
when I received the dreadful news
 
Anh tặng em mùi máu
 
You gave me the smell of blood
 
Trên áo trận sa trường
 
still lingering on your battle dress
 
Máu anh và máu địch
 
your blood and the enemy’s blood
 
Xin em cùng xót thương
 
and asked me to have pity on both
 
Em tặng anh mây vương
 
I gave you the hanging clouds
 
Mắt em ngày tháng hạ
 
the eyes of mine of summer days
 
Em tặng anh đông giá
 
I gave you the wintry freeze
 
Giữa tuổi xuân cuộc đời
 
In the middle of the spring of life
 
Anh tặng môi không cười
 
you gave me non smiling lips
 
Anh tặng tay không nắm
 
you gave me unclenched hands
 
Anh tặng mắt không nhìn
 
you gave me non seeing eyes
 
Một hình hài bất động
 
A totally non-moving form
 
Anh muôn vàn tạ lỗi
 
I beg you I beg you to pardon me
 
Xin hẹn em kiếp sau
 
with the hope of a next life ‘s reunion
 
Mảnh đạn này em giữ
 
This shrapnel is for you to keep
 
Làm di vật tìm nhau.
 
as a token for us to find each other
 
Sài Gòn Tháng 7/ 1969
 
Trần Mộng Tú
 
[ Đặng Vũ Vương – Translated 4/16/2023 ]
 
Bài thơ “Quà Tặng Trong Chiến Tranh”, dịch sang Anh văn đã được chọn vào sách giáo khoa Mỹ (American Literature – Nxb Glencoe /McGraw-Hill) vào năm 1999, để cho các học sinh Trung Học có dịp so sánh với bài diễn văn “The Gettysburg Address” của Tổng Thống Abraham Lincoln đã làm nhiều người xúc động và tự hào.
 
TMT thì xúc động vì bài Thơ đó viết vào năm 1969, “như một tờ vàng mã” đã hóa trên phần mộ ở đất nước Việt ba mươi năm về trước, bây giờ ở trên đất Mỹ bài thơ được mang ra như một mảnh băng quấn lại một vết thương đã thành sẹo. Vết sẹo, thoảng có khi nào cúi xuống nhìn cũng chợt ửng đỏ”. [6]
 
Một giai thoại về bà cô Trần Mộng Tú: có một câu chuyện hy hữu về cuốn sách, Jessy là tên một đứa cháu gọi Frank – chồng TMT bằng bác, năm đó Jessy học lớp 11 ở Houston, Texas. Khi cháu được học bài thơ “A Gift in Wartime” cháu giơ tay nói: Đó là bài Thơ của Cô tôi / My aunt. Nhưng không ai tin vì Jessy là thằng bé Mỹ đặc, tóc vàng mắt xanh. Tháng sau, cháu Jessy tới Seattle đòi chụp một tấm hình với Aunty Tú, rồi mang về lớp để làm bằng chứng, lúc đó thì tụi bạn Jessy mới thực sự tin.
 
 
2003 LOS ANGELES: THE ETHNIC PULITZERS
 
Năm 2003, Trần Mộng Tú được The New California Media (NCM) trao giải thưởng báo chí cho bài “Bình Luận”: Một chốn Bình an [A Safe Place], đã được đăng trên trên nguyệt san Phụ Nữ Gia Đình. Giải thưởng đặc biệt này còn có tên gọi là “The Ethnic Pulitzers”.
 
Tổ chức NCM đã viết về TMT như sau:
 
“Trần Mộng Tú đã được biết tới trong thế giới truyền thông từ 1965 [*từ 1968, ghi chú / hiệu đính của người viết] như một thư ký của hãng thông tấn AP Sài Gòn. Khi chiến tranh chấm dứt năm 1975, Trần Mộng Tú đã thoát ra khỏi Việt Nam như một người tỵ nạn. Với lòng yêu văn chương Việt Nam cùng với những cảm xúc của tình cảnh lưu vong đã biến cô thành một nhà văn.
 
Cùng với công việc của một chủ bút, Trần Mộng Tú còn phụ trách mục bình luận trên tờ báo tiếng Việt, đúng như tên gọi quan tâm tới các vấn đề “Phụ nữ và Gia đình”. Trần Mộng Tú đã viết và xuất bản một tập thơ và một cuốn truyện ngắn. Bài bình luận được thắng giải của Trần Mộng Tú viết về đứa con gái của bà lên New York làm việc thiện nguyện cho hội Hồng Thập Tự ngay sau biến cố 9/11/2001.
 
Bỗng chốc, bà cảm thấy nước Mỹ nơi bà chọn đi tỵ nạn sau cuộc chiến tranh xâu xé ở Việt Nam, không còn là một chốn bình an như bà vẫn nghĩ. Với lòng hãnh diện và cả với những nỗi lo âu cho đứa con của mình trên xứ sở đang dung thân, đã thúc đẩy bà viết bài báo này. Trần Mộng Tú phát biểu: “Mặc dầu đó là mối lo của một bà mẹ Việt Nam, nhưng cũng là mối lo của tất cả các bà mẹ khác.”
 
 
 
HỘI NGỘ AP 36 NĂM SAU:  SAIGON 1975 – LITTLE SAIGON 2011
 
Năm 2011, tại hải ngoại, lần đầu tiên có một buổi hội ngộ các cựu nhân viên Văn Phòng Associated Press Saigon tại tòa báo Người Việt, Little Saigon, California.
 
2016 ĐỐT HÌNH ĐÁM CƯỚI VÀ ĐÁM TANG
 
“Tôi nghĩ mình đã bước vào tuổi cuối đời rồi, lúc đó TMT đã bước qua tuổi 70, không biết “Cuốn theo chiều gió” lúc nào. Không nỡ để lại lúng túng cho mấy đứa con. Chúng đốt thì sợ Mẹ buồn, giữ thì không biết để đâu. Thôi thì mình tránh cho ai được cảnh lúng túng đau lòng thì nên tránh. Mình quen với đau lòng rồi. Bây giờ tôi còn giữ lại một chút tàn tro.”
 
Hình đám cưới và đám tang gần 100 tấm. Đã đốt hết một nửa ở nhà. Còn một nửa mang xuống Cali đốt tiếp. Lúc đốt cũng đau lòng lắm, nước mắt nước mũi giàn giụa.
 
TMT không sao nhớ được đã viết xuống bao nhiêu bài thơ. Vì trong cả 15 năm đầu ở hải ngoại, chưa có computer nên toàn viết tay, lúc nào TMT cũng làm thơ được. Đang lái xe, ngưng lại ở góc đường hay kẹt xe ở xa lộ cũng viết được những câu thơ chợt đến. Hồi đó đã có lần tông vào cột telephone rồi. Một lần tông vào cái xe truck đằng trước vì lúi húi viết trên volant. Bây giờ thỉnh thoảng dọn lại tủ sách, hoặc giữa đống sách vở chung quanh nhà, gặp một bài thơ, không biết viết từ bao giờ.
 
Nhiều người nhắc tới “Bình Thủy 1969” gọi đó là truyện ngắn – nhưng thực sự đó là một “tự truyện” của TMT; được nhà văn Phùng Nguyễn đánh giá đó là một “Hồi Ký về Chiến Tranh hay nhất”. [6]
 
2009 CÔ GÁI TRONG HÌNH CÓ PHẢI TÔI KHÔNG?
 
Có người gửi tôi tấm hình trên mạng
 
cô gái Sài Gòn áo trắng khăn tang
 
đi trong Sài Gòn bốn mươi năm cũ
 
cô gái trong hình có phải tôi không?
 
Ô hay tại sao tự nhiên tôi nhận
 
Sài Gòn cả trăm cô gái giống tôi
 
cả ngàn khăn tang trên đầu góa phụ
 
góa phụ còn hồng một vệt son môi
 
Ô hay tại sao tự nhiên tôi chối
 
Sài Gòn ngày ấy trắng toát khăn tang
 
những cô trẻ lắm mắt đầm đìa lệ
 
theo tay ai dắt đi vào nghĩa trang
 
Sài Gòn bây giờ khói nhang đã tắt
 
góa phụ ngây thơ tóc đã phai xanh
 
nhìn lại tấm hình nhận ra cô gái
 
khẽ gọi tên côTrần Thị Chiến Tranh.
 
TMT 30/ 04/ 2009
 
_______
 
VẪN VỚI MỘT CHỮ NẾU
 
Nếu mùa Xuân có thật
 
Em sẽ quên tất cả những mùa khác
 
Nếu anh sống sót trở về
 
Em sẽ quên như chưa hề có chiến tranh.
 
– TMT
 
______
 
2023 NHƯNG RỒI VẪN CỨ MÃI MỘT BÀI THƠ THÁNG 4 Ở ĐÂY
 
Hôm qua
 
ở đây là ngày đầu mùa xuân
 
tờ lịch rơi xuống một nụ đào
 
Tháng Ba sắp hết
 
Tháng Tư như lệ sắp trào
 
 
 
Tháng Ba ở quê tôi năm đó
 
thành phố nào thảng thốt
 
con đường nào chảy máu
 
bãi biển nào oan khiên
 
Một người lính vừa tự kết liễu đời mình
 
 
Giày trận có linh hồn
 
nón trận có khối óc
 
áo nhà binh có gói một trái tim
 
tất cả phủ trên anh
 
thành một bài “Truy Điệu”
 
 
Tháng Ba
 
người giẫm đạp lên nhau
 
chiếc thuyền lao ra biển
 
tiếng kêu thất thanh
 
tiếng khóc như cánh chim bay lạc
 
 
 
Tháng Ba
 
con chạy về tìm Mẹ
 
Con đi đi
 
Mẹ già rồi ở lại
 
 
Tháng Ba
 
Chồng chạy về tìm vợ
 
Em đi đi
 
Các con đi đi
 
Anh là lính
 
Anh ở lại
 
 
 
Thế là Mẹ mất con
 
Không biết mất nơi nào
 
Thế là vợ mất chồng
 
Không biết mất ở đâu
 
 
Tháng Tư
 
cả nước mất nhau
 
mất tất cả
 
không còn gì
 
 
 
Vật ngoài thân
 
thời gian tìm lại được
 
Nhưng mảnh vỡ trong tim
 
đã rơi dần từng mảnh
 
ngay bước đầu tiên
 
trên con đường di tản
 
không bao giờ tìm lại được
 
 
 
Người di tản
 
của bất cứ quốc gia nào
 
trái tim cũng mất dần từng mảnh
 
nên khi chết
 
họ chết với một trái tim không nguyên vẹn
 
có người chết
 
với lồng ngực rỗng
 
họ mất nguyên cả trái tim
 
 
 
Tháng Ba ở đây vào Xuân
 
tháng Tư đầy hoa đào nở
 
mỗi đóa hoa như một giọt nước mắt hồng
 
rơi xuống trái tim tôi.
 
– TMT
 
(Vào Xuân 3-20-2023)
 
___________
 
THƠ VÀ CHỮ TRẦN MỘNG TÚ: MỘT SUỐI NGUỒN TƯƠI TRẺ
 
Kể từ bài thơ đầu tiên, cho tới nay Trần Mộng Tú đã có hơn nửa thế kỷ làm thơ, viết văn, viết báo. Bước qua tuổi “cổ lai hy”, chưa có dấu hiệu gì là TMT chậm lại. Vẫn có đó một TMT như một suối nguồn tươi trẻ, luôn luôn mới mẻ, và tưởng như là bất tận.
 
Có thể nói cái hay của thơ của TMT là sự giản dị, không bị gò bó trong nguyên tắc hay một thể thơ nào, thơ của TMT chỉ như “chuyện kể” hoặc ngắn như một “bản tin” và chất thơ là ngay nơi mỗi con chữ. Không chỉ làm thơ, nhưng TMT còn viết văn – văn của Chị như một thể thơ xuôi – prose.
 
Ngày nào mà Trần Mộng Tú còn thở, còn hiện diện trên thế gian này, vẫn còn những trái ngọt hay cả với những trái đắng từ “thực phẩm trần gian – les nourritures terrestres” [tên một tác phẩm thơ xuôi của André Gide, 1897], và Trần Mộng Tú vẫn còn làm thơ, thơ và chữ chính là hơi thở cuộc sống của Trần Mộng Tú.
 
Để có thể viết đầy đủ về cuộc đời rất đặc biệt của nhà thơ Trần Mộng Tú, thật sự phải cần tới một cuốn sách. Cũng nhân đây gợi ý với các bạn trẻ trong và ngoài nước, đang chuẩn bị cho một luận án văn học, Trần Mộng Tú – đi ra từ chiến tranh, nhưng lại là “biểu tượng của một nền văn hóa hòa bình”, và chân dung TMT sẽ là một đề tài hấp dẫn và phong phú để các bạn trẻ khám phá và dấn thân vào.
 
NGÔ THẾ VINH
 
Little Saigon, Fourth of July 2023

__________________


Đỗ Hứng gởi