Trí thức thổ tả
(Đã sáng mắt ra chưa (II)
Lời mở đầu:
Qua nhiều lần trao đổi ý kiến giữa tôi và hai đồng môn cùng học, trước năm 1975, tại trường “Cao Đẳng Canh Nông - Sài Gòn:” một người là thuyền nhân hiện định cư tại Hoa kỳ, một người là sinh viên Việt Nam du học cao học ở Nhật (trước năm 1975) và bây giờ định cư tại Úc; tôi mạn phép được thu hợp các ý kiến này lại rồi viết lại thành ra bài nhận định này. Nội dung bàn về một giới rất “ồn ào” mà chúng ta vẫn thường gọi là “Trí thức thiên tả.”
1- Nhận định của đồng môn cư trú tại Hoa Kỳ:
Những người Việt Nam ở ngoại quốc có học vị cao rất nhiều, họ giỏi về chuyên môn, nhưng một số lớn còn rất kém cỏi về trình độ chính trị. Vì thế nên họ dễ bị cộng sản tuyên truyền rồi trở thành mù quáng, quá tin tưởng vào cái thiên đàng bánh vẽ của CHXH và cái lý thuyết trời ơi đất hỡi của đảng cộng sản.
Ngày xưa (trước năm 1975) thì không nói làm gì, vì lúc đó lịch sử chưa sang trang, chưa rõ ràng; lại đi du học ngoại quốc với nổi dằn vặt quê hương đang có chiến tranh thì hình ảnh người lính bộ đội bắc Việt hay du kích của MTGPMN dễ làm cho người Việt trí thức ở ngoại quốc suy nghĩ thiên vị, không rõ đâu là chính nghĩa. Có lẽ đó là một phần nguyên nhân đã khiến họ trở thành thiên tả. Ngay tại Sài gòn vào thờì chiến tranh, sinh viên mà cứ mải, ham đọc những tạp chí như Đối diện, Thức tỉnh của Linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan… là muốn cuốn gói vô Hố Bò, Tam Giác Sắt, Chiến khu D… rồi; Đâu cần dùng tới bộ máy tuyên truyền bất kể hao tốn của Việt cộng.
Nhưng mà… đảng cộng sản đã cai trị đất nước trên 32 năm rồi, hồ sơ sử liệu đã được bạch hóa, cùng với sự lên tiếng của những nhân chứng còn sống từng là nạn nhân của chế độ cộng sản bạo tàn đầy rẩy đây mà.
Mình đâu có sống dai để đủ kiếp học hết bài học đắng cay này đến bài học cay đắng khác từ cộng sản. Hãy nhìn lại nổi đắng cay nghiệt ngã của kẻ đã đi vào quỹ đạo của CS. Họ là “trí thức” chứ không phải là bần nông khố rách ít học. Họ đã được cộng sản Hà nội trả công khuyển mã của họ cái gì?
Thời xa xưa kia, Nguyễn Văn Trấn (đại gia chợ Đệm) [1], Dương Bạch Mai (đại địa chủ, “parler francais” như gió) Trần Văn Giàu (lý thuyết gia cộng sản, công lao qúa xá trời trong Nam). Những người nầy đã cúng dường tam bảo CS không biết bao nhiêu của cải, tim óc, sức lực của mình cho “cách mạng” trong thời Việt minh còn mặc quần xà lỏong chơi tầm vông vạt nhọn. Năm 1975, khi về Nam, ông “khai quốc công thần” Nguyễn Văn Trấn “được” bộ chính trị CS cho công an “hầu hạ” canh gác cửa 24/24 vì thấy thả hổ về rừng nguy hiểm qúa…
Mấy chục năm công lao mà CS chỉ cho người ta chức “Bật mã ôn” (giữ ngựa) thì lỡ người ta quậy thì sao? Trần Văn Giàu thì đã bị thất sủng từ lâu lắm rồi. Chủ tịch quốc hội Dương Bạch Mai thì phổi bò và thẳng ruột ngựa Nam kỳ nên được đảng cho đi chầu Lenin sớm để vừa tiện sổ sách (đóng một cái mõm hay sủa bậy!) vừa tiết kiệm ngân quỹ nhà nước. Nên biết Dương Bach Mai chết trong lúc nghỉ giải lao trong một phiên họp quốc hội CS. Nhiều nguồn tin cho biết Dương Bạch Mai uống chén nước trà bị bỏ thuốc độc (?!) Cay hơn nữa là Dương Bạch Mai còn được chính ngay kẻ đã “trừ khử” mình đến dự tang lễ khóc thống thiết làm tuồng “kính chúc đồng chí chết mạnh giỏi!” Thế mới biết chính trị cao là gì!
Gần hơn chút nữa, những tay “vô trí thức” của MTGPMN anh hùng làm được trò trống gì sau 30 tháng 4 năm 1975? Nguyễn Hữu Thọ, “người” được bác giao cho nhiệm vụ lãnh đạo mặt trợn và cũng là “người” đã đi đến cuối con đường…đã hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ mà dân tộc đã giao cho…”
Ai có theo dõi tin tức, báo chí cũng biết thân phận của “người” này như thế nào trước khi đi chầu “Bác” rồi. Nguyễn Thị Định (người Giồng Trôm, Bến Tre) chưa hề biết sờ (hay bóp cò) súng đến một lần lấy hên mà lại được CS phong là “nữ tướng tóc dài,” “tư lịnh phó lực lương võ trang quân đội Giải phóng,” trong khi kẻ nhắc tuồng cho em Định là đồng chí Nguyễn Chí Thanh – một cánh tay dài của Hà nội. Sau ngày MTGPMN bị xóa sổ, em Định được làm cái giống gì (?) ở chức vụ “thứ truởng bộ thương binh” và chủ tịt hội liên hiệp phụ nữ?” Nguyễn Thị Bình (tên thật là Nguyễn Châu Sa sinh tại Sa đéc, năm 1962 mới đổi tên là Nguyễn thị Bình) “được” làm “phó chủ tịch nhà nước,” “phó trưởng ban đối ngọai trung ương đảng.”
Mấy cái hàm “phó” đó cũng chỉ lại là những cái chức ngồi chơi xơi nuớc cho đẹp mắt với bà con miền Nam, đâu có ý nghĩa gì trong chế độ lúc nào cũng duy trì các Nhiếp Chính Vương (còn gọi là bộ chính trị - nếu thu hẹp hơn thì có Duẩn, Thọ, sau nầy thì thêm Mười, Anh…), khi các Nhiếp Chính Vương nầy phát cân đai áo mão cho ai thì hãy coi như hồng ân từ Bác và đảng. Sống dưới thời buổi “độc lập tự do hạnh phúc” mà “than vãn” thì cũng được CS xem như đồng nghĩa với đang chán sống; có mà tiêu tùng sớm. Còn ông giám đốc công ty đường thời Tổng thống Ngô Đình Diệm là ông Trương Như Tảng đường mía nữa chứ!
Me xừ này phải chờ đến lúc CS thu hết miền Nam mới biết “đường” nào là đường trắng, đường nào là đường thẻ, may phước gài kịp “số de,” chứ chậm chân một chút nữa có thể bị tai nạn lưu thông chềt hết cả nhà (như trường hợp kịch tác gia Lưu Quang Vũ và gia đình). Đề nghị “trí thức” phe ta nên đọc cuốn “memoir” của cái gọi là “Tảng đường mía chết hụt này” (sao hắn không chết đi cho rảnh!) để cho sáng mắt sáng lòng.
Thôi, phải cất công nói chi cho xa xôi, tấm gương sát bên mình là thầy (?) Châu Tâm Luân [2] nè, bà Ngô Bá Thành [3], ông Chu Phạm Ngọc Sơn, Trần Ngọc Liễng… bằng cấp treo đầy cả tường, nhìn phát chóng mặt… hay là các ông cố đạo Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín không lo phận sự rao giảng phúc âm của Chúa mà cứ lo nói xa nói gần để ru ngủ người mọi người dân miền Nam bỏ súng hướng về xã hội “thiên đường.” Nhưng ngay chính cá nhân của mình lại phải đợi được đối diện thật sự với thiên đường (?) mới thức tỉnh (!)
Đừng mong đợi người cộng sản đang ngồi ghế lãnh đạo hồi tâm (còn được gọi cho hoa mỹ mị dân là “đổi mới”). Họ tra thêm son trét thêm phấn vào mặt, thay đổi ngoại hình chút chút để dễ diển màn (bỉ ổi) khác thôi.
Trí thức tay mơ thấy gái bia ôm lên giọng “em đang đổi mới” mà lại dại dột “yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ” là bỏ mẹ cả đám. Cứ rước em về nâng khai sửa tráp (văn chương bình dân giáo dục gọi là”nâng bi sửa dế”) đi, ba bảy 21 ngày là biết liền hà... Cộng sản là cái gì? Bộ chính trị là cái quái gì trong trào lưu dân chủ trên thế giới ngày nay?
Các trào lưu dân chủ và nhân quyền đang làm cho họ xanh mặt, tóat mồ hôi… trán. Ở ngòai mặt hộ vẫn đang khoác cái áo cộng sản chứ thật ra họ là đại tư bản từ lâu rồi. Phải giữ cái áo cộng sản thì họ mới có thể chơi ngang, đàn áp, cầm tù, bịt mồm và cướp giật của người dân đồng thời bảo vệ tài sản đã vơ vét mà không sợ pháp luật! “Organized Crime” ở Mỹ như Mafia chỉ đáng sách dép cho mấy tên CSVN.
Trí thức mà quá kém cỏi về sự gian xảo trong chính trị thì thua là phải rồi… nhưng mà cũng thấy tội nghiêp cho cái đám trí thức lọai này, đến giờ này vẫn còn muốn thua thêm chút nữa cho nó trọn vẹn, cho nó đầy đủ, hòan tất cho nó xong phim! Bởi vậy nên anh Ba Bếp (tên gọi của “Bác” Hồ khi lên làm việc đầu bếp trên tầu buôn của Pháp từ hãng nhà Rồng Sài gòn 1910?) đâu cần học hành gì nhiều cho tốn thời giờ!
Từ ngày anh Ba (bếp) bị quan Tây bác đơn (1911) xin học trường hậu bổ (của Tây thuộc địa) để làm quan cho Tây, anh Ba hơi căm, chuyển qua học nghề làm chính trị gian ác nên sai khiến hết đám trí thức nhẹ dạ dễ dàng như lấy đồ trong túi ra. Thấy mà tội nghiệp!!!
Phụ Chú:
[1] Nguyễn Văn Trấn đây là Bảy Trấn (chứ không phải là ông Nguyễn Văn Trấn hậu sinh nào đó mới “về thăm Việt Nam sau 32 năm” đâu!) Đây là Trấn “Camel” (dân cậu miệt vườn, chỉ hút thuốc lá hiệu Camel) người chợ Đệm Long An, loại trí thức địa chủ, một đại thụ của cộng sản thời thập niên 30… Đại thụ nầy là tác gỉa cuốn sách “Viết cho mẹ và quốc hội;” hắn cùng cỡ tuổi với các tên trùm CS như Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Ung Văn Khiêm… đã bỏ lúa ruộng không ai thâu, nhà lầu không ai ở để đi theo cộng sản.
Nguyễn Văn Trấn đã từng là chính ủy khu 9 (miền Tây nam bộ), chủ nhiệm báo “Le Peuple” đấu tranh công khai với thực dân thời cộng sản miền nam như vịt mới ra ràng. Tập kết ra bắc (cùng lúc với Tô Ký, Đồng Văn Cống, Huỳnh Văn Nghệ...) Sau này Lê Duẩn không cho Nguyễn Văn Trấn được đến một cục xương còn dính chút thịt để gặm cho đỡ tủi!
Về Nam sau năm 75, chả có chức vụ gì dù đã có 62 tuổi đảng (tính đến năm 1997), ôm nỗi uất ức cho tới ngày chết.
[2] Ông Châu Tâm Luân người Việt gốc “xì dầu củ cải muối,” được đi du học Hoa kỳ bằng học bổng quôc gia của VNCH, tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế (đại học Illinois năm 1966?), về Việt Nam cuối thập niên 60, dậy môn “Kinh tế nông thôn” và “Quản trị nông trại” tại Trung tâm quốc gia Nông nghiệp (TTQGNN) Sài gòn (và cũng dậy môn Kinh tế tại đại học Vạn Hạnh). Ông Châu Tâm Luân đã có lần giữ chức vụ “Gíam đốc” TTQGNN (gồm cả 3 trường Cao đẳng Canh nông, Cao đẳng Thủy lâm và Cao đẳng Thú y Sài gòn) trong một thời gian ngắn (vào giai đọan mà các chính trị gia mới trổ mã dậy thì Hùynh Tấn Mẫm và Lê Văn Nuôi sách động sinh viên, học sinh Sài gòn “xuống đường” biểu tình chống Mỹ và chống chính phủ VNCH mạnh mẽ nhất).
Trong các lớp học kinh tế mà ông Luân dậy, ông công khai giảng cho sinh viên là “Xả hội chủ nghĩa là con đường duy nhất (sic) để đưa Việt Nam đến vinh quang (Giỏi nhỉ! Tiến sĩ này chép y chang lại lời của việt gian HCM)” mà không hề thấy ông ta bị Công an cảnh sát của chính phủ VNCH đến hỏi thăm(?) –
Có lẽ ông ta “too visible!”lúc bấy giờ vì thường xuyên được truyền thông của Mỹ đến trường phóng vấn dài dài (đài CBS, NBC, ABC…) Vào những năm, những ngày cuối cùng của VNCH, ông xì dầu Luân đứng cùng danh sách với các nhân vật của “thành phần (lòng tòong ở chính giữa!) gọi là thứ 3,” rất ồn ào hô hào hòa giải hòa hợp dân tộc…
Sau 30 tháng 4 năm 1975, con vẹt ngây thơ này không được CS dùng đến 1 ngày để quát lá đa (không phải đi “cải tạo” vì đã tốt nghiệp tiến sĩ tại Hoa kỳ là may lắm rồi). Sau đó ông Châu Tâm Luân trốn vượt biên đi định cư ở ngọai quốc (hình như là Thụy sĩ? Chứ Mỹ chắc chắn là họ không chấp nhận con két “thổ tả” này! )
[3] Bà (?) Ngô Bá Thành tên thật là Phạm Thị Thanh Vân (Ngô bá Thành là tên chồng của bà). Ông Ngô Bá Thành cũng là công chức của VNCH, dậy học trường Cao đẳng Canh nông Sài Gòn. Kể ra chinh phủ VNCH dân chủ và dễ dãi thiệt, vẫn trả lương tháng đầy đủ, vẫn cho ông Ngô bá Thành dậy học như chẳng hề có chuyện gì xẩy ra…
Bà Thành tốt nghiệp tiến sĩ Luật tại Pháp và sau đó có học và làm việc trong một thời gian ngắn tại đại học Columbia (New York) Hoa Kỳ. Ở Sàigòn, bà Ngô bá láp này tự phong cho mình là “chủ tịt” của “Phong trào phụ nữ đòi quyền sướng;” biểu tình, tuyệt thực chống chính phủ VNCH (và sự hiện diện của đồng minh ở Việt Nam) rất kịch liệt.
Sau 30 tháng 4 năm 1975 được CS cho làm đại biểu quốc hội CS trong 3 khóa (6,7 và 8). Đến khóa 9 thì bị gạt ra. Bà chỉ tuyên bố sự tức giận của mình (bà cho là mình bị gian lận bầu cử? Xin nhờ bà một tí: Chế độ CS làm quái gì có bầu cử một cách dân chủ?) qua sự phỏng vấn của đài BBC chứ chả bao giờ dám biểu tình hay tuyệt thực gì cả? (nên biết, CS chỉ chờ bà này tuyệt thực là tụi nó “cúp” nước luôn thì có mà uống nước tè!)
2- Nhận định của đồng môn cư trú tại Úc:
Về Thành phần thứ ba (còn được bà con miền Nam gọi là “bộ phận nằm ở giữa!”) hay còn gọi là cho oai, cho kêu là "Trí thức thiên tả!"
Đa số họ là những người đi du học thời VNCH (con nhà nghèo đi học bổng quốc gia cũng có; con nhà giàu - đại đa số - đi du học tự túc cũng có…) mà lại theo, hay ít ra cũng thích làm dáng CS!? (cái vụ nầy nghe hơi nghịch lý khó tin nhưng là chuyện có thiệt – còn gọi nôm na là “ăn cơm quốc gia thờ ma CS”).
Tôi có những người bạn thân hồi học đại học ở Sài gòn vô bưng theo CS (giờ thì có ít danh phận, con cái đi du học tự túc ở Mỹ hay Canada) và những người bạn “thiên tả”của lúc tôi qua Nhật du học (bây giờ họ vẫn còn thiên tả một cách thầm lặng - tức là không ồn ào binh vực chính quyền CS như xưa - nhưng hầu như vẫn còn mong mỏi CS đổi mới, hồi tâm y như người vợ đã bị chồng bỏ theo vợ bé nhưng vẫn mong chồng có ngày quay trở về mái gia đình xưa!!!). Ở ngọai quốc, CS Bắc Việt thi hành triệt để chính sách tuyên truyền. Qua hình ảnh (tuyên truyền), họ là “những người đại diện cho một quốc gia nghèo khó nhưng quyết tâm chống lại cuộc chiến tranh ‘xâm lược’ của Mỹ!!!” Thế giới và sinh viên Nhật lúc đó còn mông nuội và tin lời dối trá (như vẹm) của họ. Những vụ như Mỹ Lai được thiên hạ biết rất nhiều và hình ảnh người lính VNCH bị xem như là “lính đánh thuê”... lãnh thổ VNCH bị xem như một cái thùng rác để các chính trị gia Mỹ (ngạo mạn) và các ông lãnh đạo Việt Nam (bất xứng) tự tiện phóng uế bừa bãi...
Tôi cũng có những người bạn thân “thiên tả” đã “can đảm” về Việt Nam sau 1975 làm việc (khỏang đầu năm 1980). Đa số bây giờ nếu không nghèo thì cũng không giàu nhưng tạm đủ để gởi con đi du học xứ ngoài. Con cái họ muốn đi học bổng nhà nước thì chắc không được rồi vì lý lịch không nặng cân bằng mấy tay vô bưng hay cán bộ CS ngoài Bắc. Nhưng họ cũng không dám nói gì ngoài chuyện khuyên tôi có về thì “đợi khi già có tiền hưu rồi hãy về sống với tiền hưu của mầy." Tôi đã có lần hỏi thử họ là “muốn làm cái gì để đóng góp cho quê hương thì phải làm gì?" thì được họ trả lời là “về Việt Nam chơi, đem tiền về xài cũng là đã đóng góp cho quê hương rồi!!!” Tôi nghĩ đây là câu trả lời này nghe thấy nửa chua chát nửa khôi hài nhưng là câu trả lời chân thật nhất của họ.
Tôi cũng đã có nhiều cơ hội tiếp xúc với những đàn anh, đàn em “thiên tả” hồi học ở Nhật cũng như bây giờ sống và làm việc bên Úc. Tôi dự định trong tương lai sẽ viết về họ một cách khách quan, trình bày những “political psychology,” “paranoia,” “ autism...” của họ.
Có điều là “thiên tả trầm lặng ở ngoài” (mà muốn về Việt Nam) hay “thiên tả im lặng ở trong nước” (muốn trốn ra ngọai quốc) đều có chung một tâm lý: cả hai hình như lúc nào nơm nớp sợ Công an CS bắt (nên nhớ là CS chủ trương “bắt và giết lầm hơn tha lầm!”). CS đã có rất nhiều tuyệt chiêu và sáng kiến về sự bắt bớ này: khi bắt chẳng những họ bắt đương sự mà còn bắt luôn cả gia đình đương sự để khủng bố. Thí dụ như hồi bắt lính đi “Kampuchia” năm 1980, thằng em vợ tôi trốn lính (CS gọi là trốn “nghĩa vụ quân sự!”) công an phường bắt bà mẹ vợ tôi mỗi ngày phải lên phường “làm việc” liên tục trong 3 tháng trời, hăm he sẽ bỏ tù bà cụ nếu em tôi không ra trình diện). Lọai “Thiên tả” này không bao giờ sợ Cảnh sát tư bản vì khi bị bắt ít ra còn có luật sư bào chữa, báo chí truyền thông hô hóan là vi phạm “human right” dùm!
Riêng “thiên tả ở ngoài nước” dầu “trầm lặng” hay vẫn còn “ồn ào” ủng hộ CS bằng cách thỉnh thỏang rình rập cơ hội xả rác, phê bình đá giò lái, chọc gậy bánh xe tư bản Mỹ, Anh, Pháp, Úc etc... thì đều có chung một đặc điểm: “Vẫn đi cày lảnh lương ở xứ người cho đến ngày tàn hơi, mà không bao giờ dám về làm việc luôn dưới chính quyền CS để xây dựng CHXHVN độc lập - tự do – hạnh phúc!!!" Bởi vì họ biết thừa là về Việt Nam sẽ bị “thổ tả” đầy quần ngay!!!
Tôi không biết luật Nhân Quả của nhà Phật sẽ áp dụng như thế nào vào các hòan cảnh (“thiên tả”) này? Muốn bàn thêm nhưng lại sợ bị đụng chạm!! Thành ra… tốt nhất là im cho được việc thôi! Có điều tôi tin rằng “muốn biết những gì họ có trong tương lai thì hãy nhìn những gì họ làm trong quá khứ và hiện tại." Đôi khi biết phân tích mà không dám (hay không có cách) giải quyết được cũng là cái khổ của đời sống.
Nghĩ lại đôi khi tôi cũng thấy “thông cảm” cho mấy ông “thiên tả” bạn hay đàn anh của tôi: cái khổ của người bên phe thua cuộc như tôi thì nó quá rõ ràng nên không có gì ấm ức, ít ra còn có đối tượng để “chửi bới” cho đã miệng khi giận; còn cái khổ của “kẻ đứng trong hàng ngũ chiến thắng” sau khi thấy “xã hội chủ nghĩa” lý tưởng của mình không hơn câu nói thực tế của tài phiệt báo chí lá cải (tabloid papers) Rupert Murdock (người Úc quốc tịch Mỹ):
“Khi còn trẻ mà không có lý tưởng xã hội thì mình là người không có con tim; còn vào tuổi trung niên mà vẫn còn ôm ấp "xã hội chủ nghĩa" thì mình là người không có đầu óc (mindless)."
Mấy ông nội trong bộ chính trị CSVN xem ra biết áp dụng câu nói nầy; còn mấy ông “trí thức thiên tả” thì vẫn còn ôm ấp nó; dù đã vào lứa tuổi lục (hay thất) tuần rồi nên đó là nỗi khổ thiên thu của “loài chó hoang” không biết phải trở về với chủng loại nào cho hợp: Lòai chó hay lòai chồn…??!!
__________________________
Kha Tư Giáo, Người Chiến Sĩ Bất Khuất Của Tự Do
* để tưởng nhớ ngày 30 tháng 4 năm 1975…
Gần đây truyền thông và báo chí của người Việt hải ngọai đã tốn rất nhiều thời giờ, công sức, dài dòng về sự vô liêm sỉ, bất xứng, trở cờ của một số cỏ đuôi chó sống đời tị nạn ở hải ngọai. Các ngọn cỏ đuôi chó này đang uốn theo ngọn gió phỉnh gạt mới của cộng sản: ồn ào hô hào hòa hợp hòa giải với cộng sản, “quên đi qúa khứ, hướng về tương lai… (sic)” Trong đó, buồn thay, có cả những người đã từng nắm vai trò lãnh đạo của miền Nam Việt Nam trước 30/4/1975. Những tên tuổi này đã từng (bị cộng đồng lật tẩy) có thành tích lừa thầy, phản bạn và đâm sau lưng chiến sĩ, đồng đội. Đã đến lúc chúng ta nên quên họ đi… Hãy để mặc cho họ tha hồ múa may theo nhịp trống bịp bợm mà mafia CS đang đập, trước khi họ lại được chính bọn CS cho học một bài học lường gạt (cũ rich) của CS. Các bài học lịch sử của sự “liên minh” với vẹm năm 1945, của sự ký hiệp ước với CS (Paris Accord – Hiệp định Ba-lê) năm 1973 vẫn còn rành rành, chắc chắn sẽ cơ hội tái diễn…
Thay vì cất công bận tâm đến họ, chúng ta hãy dành chút ít thời giờ quí báu để nhắc nhở, tưởng nhớ các chiến sĩ (hầu như vô danh) của tự do đã sống bất khuất, cuối cùng đã chọn cái chết (vinh) hơn sự sống nhục. Các chiến sĩ bất khuất như Ngô Nghĩa, Kha Tư Giáo…
Bài này viết về chiến sĩ Kha Tư Giáo theo lời thuật lại của một đồng môn với tôi. Anh đã là bạn tù của Kha Tư Giáo kể từ ngày cùng đi trình diện (để đi gọi là “học tập cải tạo !”) tại trường đại học Kiến Trúc Sàigòn ngày 28 tháng 5 năm 1975 cho đến khi Kha Tư Giáo chết ở Long giao, Long Khánh và khỏang tháng 6 năm 1976.
Kha Tư Giáo tốt nghiệp trường Khóa I Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt (xem ảnh Kha Tư Giáo lúc còn là SV trường Đại học CTKD Đà lạt); nhập ngũ (khóa 9/68 Thủ Đức); và biệt phái về làm cho Kỹ Thương ngân hàng ở Sài gòn. Năm 1975, Kha Tư Giáo khỏang độ 30 tuổi mang cấp bậc cuối cùng, trước ngày tan hàng 30/4/1975, là Thiếu úy.
Kha Tư Giáo người cao ráo, trắng xanh theo kiểu nhân viên văn phòng và có dáng dấp thư sinh tương tự như hình ảnh “anh chàng văn sĩ” trong trại tập trung của Đức quốc xã mà chúng ta thấy trong phim “Giờ Thứ 25” của nhà văn người Romania - C. Virgil Gheorghiu. Kha Tư Giáo là một người trầm ngâm, ít nói. Nhưng khi nói thì rất rành mạch, đúng sách vở. Kha Tư Giáo cũng là một người bạn tốt, sòng phẳng và sẵn sàng giúp đỡ các bạn tù khác.
Theo lệnh của CS, Kha Tư Giáo đi trình diện tại trường Đại học Kiến Trúc Sài Gòn ngày 28 tháng 5 năm 1975. Vào đêm 28 tháng 5 năm 1975, Kha Tư Giáo và các sĩ quan VNCH khác đã trình diện tại truờng Đại học Kiến Trúc Sài gòn trong hai ngày 27 và 28 tháng 5 năm 1975 được chuyển đến “Thành Ông Năm” ở Bùi Môn, Hóc Môn bằng xe Molotova.
Kha Tư Giáo bị giữ ở trại T2-L19 tại Bùi Môn từ ngày 28 tháng 5 năm 1975 cho đến cuối năm 1975. Anh Giáo và các tù nhân sĩ quan VNCH được CS dùng tầu đổ bộ cũ của HQVN (HQ 504 ?) chở ra đảo Phú Quốc, Dương Đông. Tất cả tù nhân đặt chân lên đảo Phú Quốc đúng vào chiều ngày 30 tết Bính Thìn 1976.
Thời bấy giờ, Kha Tư Giáo có một người chú ruột là Kha Tư Ân làm Thứ Trưởng Bộ Công Nghệ Nhẹ của chính quyền CS Hà Nội. Người chú này đã có lần viết thư cho Kha Tư Giáo nhắn nhủ là: “Cháu cứ nhận tội (làm tay sai Mỹ, chống lại CS) thì họ (cán bộ quản giáo - cai tù cải tạo) sẽ cho về.” Người em ruột của Kha Tư Giáo là Kha Tư Huấn, mang cấp bậc Trung úy, đã nghe theo lời chú nhận tội (!) như vậy, chỉ bị tù một năm rồi được CS thả về. Kha Tư Giáo cương quyết nhất định không bao giờ nhận bất cứ tội gì; mặc dù chính ngay các cán bộ quản giáo đã nhiều lần khuyên Kha Tư Giáo cứ “nhận tôi” thì sẽ cho về. Đã không nhận tội, Kha Tư Giáo còn nói với cán bộ quản giáo là:
“Tôi không có thân nhân nào làm việc với CS cả!”
Và tiếp theo là:
“Nếu thấy tôi có tội thì cứ đem ra bắn; còn thấy tôi không có tội thì phải thả tôi ra tự do!”
Sau đây là một số tranh luận với quản giáo CS mà tôi xin ghi lại qua lời kể của ông Nguyễn Tất Đắc (cựu KQVN), một bạn tù khác của Kha Tư Giáo ở Thành Ông Năm:
(Trích)
… Anh Giáo ngừoi rất cao ráo khỏe mạnh, qua cặp kính trắng ra dáng là một nhà trí thức. Sở dĩ anh Giáo đã để lại nhiều ấn tượng với tôi vì sau khi làm những việc lao động như mọi người, anh thường mắc cái võng ở một xó; rồi qua cặp kính trắng, anh nằm đăm chiêu tư lự như không muốn nói chuyện với ai. Sau đó toàn trại đều biết đến anh vì anh dứt khoát không bao giờ nhận có tội với “cách mạng.” Ít lâu sau, anh Giáo được chuyển sang đội của tôi; do đó tôi và các bạn khi họp trong đội thường xuyên được nghe anh Giáo đấu khẩu bốp chát với tên cán bộ phụ trách khiến trên thành ủy phải đưa cán bộ thứ dữ đối thoại tay đôi với anh Giáo. Mặc dù hai người nói chuyện ở ngay trong phòng, xong chúng tôi đều lảng ra chỗ khác nhưng liếc thấy anh Giáo mặt mũi đỏ gay và cả hai người một đôi khi rất lớn tiếng với nhau nên chúng tôi cũng đoán là tên cán bộ đó chẳng thể nào khuất phục để anh Giáo phải nhận tội.
Đây là những lời đối thoại bốp chát trong những giờ học tập trong đội tôi giữa anh Giáo và các tên cán bộ khiến cho chúng phải cứng họng.
Một tên cán bộ đang thao thao đề cao những ưu việt của xã hội chủ nghĩa thì anh Giáo giơ tay xin phát biểu:
“Cán bộ đề cao xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi nghe thấy khó hiểu và cao xa quá xong thực ra chúng tôi không cần biết mà cũng không cần hiểu làm gì. Dân miền nam chúng tôi chỉ đơn giản hiểu cái chủ nghĩa nào mang lại cơm no áo ấm hạnh phúc cho người dân đó mới là chủ nghĩa ưu việt mà thôi.”
Một lần khi lên lớp trong đội của tôi tên cán bộ nói: “Các anh ráng học tập tốt để về chứ nhà nước đâu có cơm gạo nhiều để nuôi các anh.”
Thấy anh Giáo giơ tay xin phát biểu. Tên cán bộ phải miễn cưỡng để cho anh Giáo nói: “Cách mạng bảo chúng tôi đi học 10 ngày mà cho đến nay đã mấy tháng rồi vẫn giữ chúng tôi lại chưa cho về; nay lại nói là không có cơm gạo để nuôi chúng tôi là làm sao?”
Tên cán bộ sửng cồ: “Ai nói với các anh là chỉ đi học tập có 10 ngày?”
Anh Giáo: “Một lời nói của các mạng để 99% người dân hiểu lầm vậy thì đó là lỗi của người dân hay của cách mạng?”
Tên cán bộ bị cứng họng mặt mũi đỏ gay tức tối..
Và đó cũng là lý do trên thành ủy đã phải cử 1 tên cán bộ xuống đấu lý với anh Giáo và qua chuyện “có tội hay không có tội” …
(hết trích)
Vì cãi không lại các lý luận của Kha Tư Giáo, cán bộ quản giáo phải mời Chính ủy của Trung đòan xuống để “góp ý” và tranh luận với Kha Tư Giáo. Đáng nhớ nhất trong tâm trí của các tù nhân sĩ quan VNCH tại trại Bùi Môn là sau vụ “góp ý” của Chính ủy trung đòan với Kha Tư Giáo không đi đến đâu cả, một tên cán bộ quản giáo nói với Kha Tư Giáo:
“Bây giờ tôi nói chuyện với anh như hai người ngang hàng. Anh định nghĩa cho tôi biết thế nào là tự do?”
Kha Tư Gíao trả lời ngay:
“Anh là kẻ chiến thắng, tôi là người thua trận, không bao giớ có thể có chuyện ‘nói ngang hang với nhau’ được. Còn anh hỏi tôi ‘định nghĩa thế nào là tự do’ thì tôi không định nghĩa được vì nghĩa của chữ tự do quá rộng. Nhưng mà khi tôi bị mất tự do là tôi biết liền.”
Tên quản giáo chỉ còn nước lắc đầu và bỏ đi.
Tại Phú quốc, Kha Tư Giáo bị giữ ở “nhà số 2” trong trại Cầu Sấu. Trại này là trại cuối cùng từ Dương Đông đi vào. Trong giai đọan này sức khỏe của các người tù nói chung xuống dốc rất mau vì vấn đề ăn uống rất thiếu thốn, sự kiểm sóat, kiểm thảo chặt chẽ của CS. Đây cũng là giai đọan mà Kha Tư Giáo phản kháng CS mạnh mẽ nhất. Kha Tư Giáo luôn luôn tuyên bố trong các buổi học tập, kiểm thảo là mình “chẳng có tội gì cả” và liên tục “đề nghị” là “nếu có tội thì cứ việc đem ra bắn ngay!”
Trong trại tù cải tạo, CS luôn hô hào, luôn tuyên truyền khẩu hiệu: “Lao động là vinh quang.” Một hôm, Kha Tư Giáo bị đau răng, khai bịnh và xin nghỉ lao động nhưng cán bộ quản giáo không cho, vẫn bắt anh đi lấy củi như mọi người. Trên đường về, anh chỉ vác một khúc củi to bằng chiếc đòn gánh. Một tên bộ đội bắt anh phải đổi một khúc cây to hơn. Kha Tư Giáo trả lời:
“Hôm nay tôi bịnh. Xin nghỉ các anh không cho; nên tôi làm như các anh nói ‘làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu.’ Tôi vác khúc cây này là đúng sức của tôi rồi.”
Tên bộ đôi nhất định bắt Kha Tư Giáo phải vác nhiều hơn, thì anh cũng nhất định không chịu tuân lệnh. Tên này bèn lên đạn súng AK, chĩa súng vào người anh hăm dọa sẽ bắn nếu anh không tuân lệnh. Kha Tư Giáo bình tĩnh tháo kiếng cận ra và chỉ ngón tay vào mặt của mình rồi nói với tên bộ đội:
“Anh hãy bắn vào đây này!”
Tên bộ đội giận run, chỉa súng lên trời bắn cả băng đạn AK mà không làm gì được anh. Câu chuyện này được đã được dân chúng ở Cầu sấu kể, truyền lại cho các trại tù khác ở Dương Đông, Phú quốc.
Kể từ hôm đó, bộ đội bắt đầu “chiếu cố” Kha Tư Giáo mạnh mẽ hơn.
Anh em trong trại tù đều biết rằng chẳng thà đi ra ngòai trại lao động còn hơn bị bắt ngồi ở trong tại học tập và viết tờ nhận tội. Vì sự chống đối không ngừng của Kha Tư Giáo, cán bộ quản giáo trại bắt tất cả tù cải tạo mỗi tháng học tập một lần để “giúp đỡ” (lời của cán bộ quản gíao trại) Giáo ra nhận tội của mình. Anh em tù ai cũng thấy ngại cho Kha Tư Giáo. Có người nói:
“Thôi! Giáo nhận tội đại đi để được chóng thả về.”
Anh Giáo chỉ nhìn anh em tù mà không trả lời.
Lần “góp ý” cuối cùng tại Phú quốc vào khoảng giữa tháng 5/1976. Sau 1 tuần lễ cả trại học tập “góp ý” để khuyên Kha Tư Giáo ra nhận tội của mình, cuối cùng mọi người đều thở phào nhẹ nhõm khi thấy anh giơ tay xin phát biểu. Sau khi đứng lên, sửa quần áo cho ngay ngắn, chỉnh lại cặp kính cận cho thẳng thắn, anh chậm rãi nói:
“Trước hết, xin cám ơn các bạn đã ‘góp ý’ cho tôi cả tuần nay; và bây giờ tôi nhận ra là tôi có một tội (nghe đến đây, tù nhân ai cũng thở phào vì sẽ sớm chấm dứt cảnh học tập; còn tên quản giáo thì miệng nở nụ cười chiến thắng). Cái tội của tôi là ‘Tôi đã không thể nói cho các bạn hiểu là TÔI KHÔNG CÓ TỘI.’ ”
Đám tù nhân cười ồ lên. Còn tên cán bộ quản gíáo thì đã tắt ngay nụ cười.
Ngay sau đó, trong một cuộc kiểm sóat trại, tên trại trưởng đã nói điều gì đó xúc phạm đến anh, anh quay đi và nhổ nước bọt xuống đất. Thế là anh bị đem đi biệt giam. Kha Tư Giáo bị nhốt theo kiểu chuồng cọp (ngồi không được mà đứng cũng không được, chỉ có một cách là nằm, nhiều lắm là co chân). Anh bị nhốt ở một chuồng kẽm gai bên cạnh trại, trên bãi đất trống trải. Phía trên chuồng có che mái sơ sài, bốn bên trống lốc. Cát, gió và kiến lửa tha hồ ùa vào. Khí hậu thì ngày nóng đêm lạnh. Suốt cả đêm, anh chỉ liên tục gào thét lên một câu trong bài hát “Đêm nguyện cầu” của Lê Minh Bằng:
“Thượng đế hỡi có thấu cho Việt Nam này…
Con tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối!”
Kha Tư Giáo cứ la hét như thế cho đến khi khản hết tiếng tăm. Anh cũng luôn miệng kêu khát “Nước! Nước!” Nhưng cán bộ quản giáo chỉ cho nước khi cho anh ăn. Anh lại phản đối tuyệt thực luôn. Giai đọan này các trại giam ở Phú Quôc có lệnh của CS phải di chuyển tù vào đất liền (vì CS đang có chiến tranh với Khmer đỏ). Kha Tư Giáo đã kiệt sức. Lúc chuyển trại, phải có bạn tù xốc nách dìu anh đi bộ suốt 7 cây số từ trại Cầu sấu ra bến cảng. Trên tầu HQ 403, mặc dầu đứng không vững, nhưng anh vẫn bị còng tay bằng còng số 8 vào thành tầu. Còng sắt hoen rỉ đã cắt da thịt của anh sát đến tận xương trắng. Hai chân anh bị cùm bằng 2 thanh gỗ có khóet lỗ hình bán nguyệt kẹp vào nhau. Tầu HQ 403 (?) đã đưa tù nhân về lại bến Tân Cảng Sàigòn sau 2 ngày, và cuối cùng tất cả được đưa về Long Giao (Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh - hậu cứ và Trung tâm huấn luyện cũ của SĐ 18BB). Khi đến Long Giao thì Kha Tư Giáo chết vì hòan tòan kiệt sức. Cuối năm 1976, gia đình Kha Tư Giáo ở Sài gòn đã có lên thăm mộ của Kha Tư Giáo mà anh em bạn tù đã thu xếp chôn cất cho anh ở Long Giao.
Anh Kha Tư Giáo,
Chúng tôi xin thay mặt cho những người còn sống sót hôm nay, thay mặt cho những người không có được cái khí phách oai hùng bất khuất của anh, xin thắp lên một nén hương cầu nguyện cho linh hồn anh được ngàn thu an nghỉ. Cuộc đời vốn dĩ đã là bể khổ. Nhưng không có bể khổ nào có thể so sánh với cái địa ngục trần gian mà CS đã và đang dùng để đày đọa anh và dân tộc Việt Nam . Lich sử nhân lọai đã nhiều lần chứng minh là bạo lực không thể tồn tại mãi được. Anh đã sống bất khuất, đã từng khóc và cười theo mệnh nước, thì chắc chắn anh chết cũng linh thiêng. Xin vong linh anh hãy phù hộ cho dân tộc và nước Việt Nam sớm thóat cảnh lầm than vô tiền khóang hậu trong lịch sử 4000 năm của đất nước.
Sự bất khuất của Kha Tư Giáo đã thật sự phản ảnh tinh thần: “Đừng sợ những gì cộng sản làm. Hãy làm những gì cộng sản sợ.”
Cuối bài, như đã trình bày, những chi tiết ở đây được ghi lại theo trí nhớ của một người lính gìa, chắc chắn sẽ có sơ xuất. Kính xin quí vị quan tâm sửa sai và bổ khuyết thêm vào bài này để giữ ngọn đuốc bất khuất Kha Tư Giáo tiếp tục cháy sáng, soi vào lương tâm của các ngọn cỏ đuôi chó.
Trần Văn Giang
07/2007
Cập nhật ngày 04/09/2009
*
Phụ chú:
Sau đây, xin giới thiệu một bài thơ do đọc gỉa Nguyên P. Thúy đã gởi đến để đóng góp với bài này:
Người Tù Không có Tội !
Kha Tư Giáo, ngươi là người có tội,
Hãy nhận đi, rồi sẽ được về nhà,
Hãy nhận mình theo Mỹ hại quốc gia,
Hãy ăn năn, đảng sẽ mau ân xá.
Tôi, Thiếu úy, tuổi 30, vất vả,
Đem đời mình để bảo vệ quê hương,
Chặn xâm lăng từ cõi Bắc phương,
Nơi sa trường súng gươm không nhân nhượng.
Vận nước đổi, nuốt hờn thân bại tướng,
Làm tù nhân, nào dám tưởng mai sau,
Đảng khăng khăng: tội máu với đồng bào,
Tôi cương quyết: lương tâm nào có tội!
Đảng cứ buộc thì bắn cho đáng tội,
Còn nếu không thì phải thả tôi ra,
Đừng hỏi tôi ý nghĩa chữ Tự Do,
Bao la lắm, nhưng biết liền khi mất.
Những trù dập, biệt giam, học tập,
Đảng giúp tôi tìm tội của tôi,
Dù đời tôi khốn khổ, xác tả tơi,
Tôi có tội: nói không ra cái tội!
Cát, gió, kiến hành hạ, ôi nhức nhối,
Suốt cả đêm, chỉ gào thét, nguyện cầu,
Thượng Đế hỡi, ở đâu? ngài có thấu?
Con tim tôi chân chính chửa dối gian.
Còng sắt hoen đã cắt hết thịt da,
Trơ xương trắng, vẫn không làm nhụt chí,
Mắt rực sáng, lộ anh hùng hào khí,
Địa ngục này chỉ giữ được xác phàm.
Đất Long Giao u uất mộ sơ sài,
Nhưng khí phách oai hùng luôn bất khuất,
Hồn có thiêng, xin theo phù hộ nước,
Thoát lầm than và thoát nạn Cộng nô.
Kha tư Giáo, người tù không có tội,
Cũng có ngày người thong thả về nhà,
Đất Mẹ ôm, rũ sạch nợ quốc gia,
Trời bao la, gió gào vang “Không tội”…
Nguyễn P. Thúy
September 11, 2008
(Lấy ý từ bài viết “Kha Tư Giáo: Người chiến sĩ bất khuất của tự do” của Trần Văn Giang)
Trần Văn Giang
________________
Đặng Hữu Phát gởi
