Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh



 
Tự truyện Khát Vọng Tự Do...



* Kính tưởng niệm tất cả vong linh đồng bào Việt Nam đã tử nạn trên biển Đông hay nơi rừng sâu trong cuộc Hành Trình Tìm Tự Do từ sau tháng 4 năm 1975 .

Chào Biệt Quê Hương

** Sau ba năm thi hành “nghĩa vụ quân sự”, tôi được đơn vị cho xuất ngũ nhờ thi đậu vào trường đại học Tổng hợp, phân khoa Văn. Tôi ở nội trú trong trường, ăn uống miễn phí và được cấp mỗi tháng 18 đồng. Vì chống lại ý ban giám hiệu trường đại học bắt tôi chuyển qua học phân khoa Sử, tôi bị tống cổ ra khỏi trường. Tôi quyết định tiếp nối bước chân những người đi trước tìm tự do bằng con đường vượt biên đường bộ để có thể học hành theo ý thích.

Buổi tối trước ngày đi, tôi về nhà Khánh Hội từ giã anh chị Hải Vân, bác Tươi và các anh chị trong gia đình. Chị Mai, vợ anh Vân, và chị Năm, chị vợ anh Vân, mỗi người chuyenchug. Nhờ số tiền này, tôi có thể đi xe đò và ăn uống dọc đường.

Sáng sớm ngày 29 / 11 / 1980, tôi mặc đồ bộ đội ra bến xe miền Đông đi Tây Ninh. Xe ra khỏi ngã tư Bảy Hiền và vụt chạy nhanh trên đường lộ nhựa. Tôi ngoái đầu nhìn lại thành phố lần cuối.

Lần cuối ! Nghe thê lương quá. Rời khỏi quê hương, cảm giác buồn rười rượi. Biết ngày nào trở lại Sài Gòn. Phan Rang, quê sanh đẻ của tôi nữa. Nơi đã cho tôi biết bao kỷ niệm đẹp thời thơ ấu. Kỷ niệm thời thanh niên ở Sài Gòn với những người thân cũng đầy ấp trong tim. Anh Phùng, anh Thiện, em Hỷ ruột thịt của tôi. Giờ đây các anh em của tôi đã vĩnh viễn nằm sâu dưới lòng đất lạnh

Tôi sẽ không còn dịp đi thăm mộ nữa. Chị Mùi có còn sống không ? Có về Sài Gòn tìm tôi không ? Còn anh chị Hải Vân, anh chị Hồ Đấu cũng thương tôi lắm. Và những cô gái xinh đẹp: Bạch, Thủy, Loan, bạn học lớp 12A Hưng Đạo, và Trang, Phượng, Đức, Linh, Hồng ở thương xá Rex coi tôi như người anh, đặc biệt là Diệu “hiện sinh” thời ở Thị Nghè đã cho tôi nụ hôn đầu đời ngọt lịm, thiết tha. Những tình thân thương ơi....Từ nay sẽ xa cách nghìn trùng ! Tôi chợt nhớ đến vài câu trong nhạc phẩm “Sài Gòn vĩnh biệt” đã nghe được trên đài VOA hay đài nào đó ở hải ngoại trong thời gian đầu mất miền Nam (Ban đầu, người Sài Gòn đồn nhau là của Phạm Duy. Khi đến Mỹ, tôi mới biết là của nhạc sĩ Nam Lộc) :

Sài Gòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời.
Sài Gòn ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời.
Giờ còn đây những kỷ niệm sống trong tôi
Những nụ cười nát trên môi
Những giọt lệ ôi sầu đắng….

Những lời nhạc rất thấm thía với tâm trạng tôi bây giờ. Tôi cảm thấy trên hai má nong nóng hai dòng lệ. Vĩnh biệt Sài Gòn từ đây !. Xế chiều, xe đến thị xã Tây Ninh. Tôi mướn một khách sạn rẻ tiền ở qua đêm. Thị xã này cũng có nhiều kỷ niệm giữa tôi với chị Mùi, anh Vọng, và Trung sĩ John, trung sĩ Munoz của Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ B16. Thời tôi ở trại Biệt kích Mỹ Bến Sỏi, từ giữa năm 1969 đến giữa năm 1970, vẫn thường cùng các anh chị đi ăn uống và dạo chơi vòng vòng thị xã. Buổi tối một mình trên sân thượng khách sạn, tôi lặng lẽ nhìn sao trời lấp lánh trong gió đông lành lạnh. Ngôi sao nào là của đời tôi lận đận, cùng tôi đi đến phương trời xa lạ.? Làm cuộc hành trình viễn xứ, tôi sẽ thực hiện được điều gì khi được định cư trên đất nước tự do của trời Âu Mỹ, để có thể góp phần nào đó tâm sức giúp ích cho quê hương mình ngày trở lại ? Trong bóng tối mông lung, hiu quạnh, tôi cảm khái ngâm lên mấy câu thơ Tống Biệt Hành của Thâm Tâm :

Ly khách ! Ly khách ! con đường nhỏ
Chí lớn không về, bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong…
Người đi ? Ừ nhỉ, người đi thật
Mẹ ! thà coi như chiếc lá bay
Chị ! thà coi như là hạt bụi
Em ! ừ xem như hơi rượu cay….

Tôi cũng đang là một ly khách với ý chí nung nấu trong lòng như nhà thơ Thâm Tâm. Ngày ly biệt của tôi không một người thân đưa tiễn. Và mai này tôi sẽ độc hành trong gió bụi đường xa !

Hôm sau, tôi chờ từ sáng đến trưa mới đón được một chiếc xe nhà binh GMC chở hàng đi Kampongcham. Nhờ mặc đồ bộ đội, xuất trình tờ giấy phép của đơn vị cấp hồi tháng bảy cho tôi về Sài Gòn học thi đại học, tôi được tài xế cho quá giang. Con đường từ thị xã Tây Ninh đến Kampongcham đã quen thuộc với tôi trong cả năm qua khi mấy lần được đơn vị cho đi phép về Sài Gòn. Lúc xe chạy qua khỏi biên giới Việt – Miên, tôi quay nhìn các ngôi nhà tranh lẫn trong các vườn chuối, vườn cau của xóm làng người Việt đang xa dần, xa dần trước mắt tôi. Tôi bùi ngùi rơi nước mắt. Xin chào biệt quê hương Việt Nam thân yêu !
Dọc Đường Gió Bụi

..** Xe đến Kampongcham lúc trời hoàng hôn. Cảm ơn anh tài xế, tôi vác ba lô đi vòng vòng thành phố. Dấu tích chiến tranh giữa bô đội Việt Nam và Khmer Đỏ vẫn còn đầy nơi những dãy nhà loang lổ vết đạn. Người đi thưa thớt. Tôi mua ít thức ăn ở một sạp hàng trên phố vắng. Thời gian cộng sản Việt Nam chiếm đóng Campuchia, người dân Miên mua bán bằng tiền Việt, hoặc trao đổi hàng hóa bằng vàng cắt vụn. Xong bửa ăn tối, tôi lần đến một nhà dân xin ngủ nhờ qua đêm. Người dân Miên rất sợ bộ đội Việt, nên việc xin ngủ nhờ rất dễ dàng. Sáng hôm sau, ăn miếng xôi lót dạ, phì phà hết điếu thuốc, tôi lần mò ra bến sông Mê kông. Khúc sông này rất rộng, chờ phà sốt cả ruột. Đến 9 giờ sáng, tôi mới qua được bên kia sông. Trước mặt là ngã tư, tôi hỏi một người dân Miên đường nào đi PhnomPenh ( Nam Vang ), họ chỉ tay về con đường hướng Tây. Tôi liền đi bộ theo con đường đó. Đường nhựa lồi lõm nhiều ổ gà, leo teo vài người dân chạy xe đạp hay ngồi xe bò ọc ạch đi ngược chiều. Có vài xe đò cũ kỹ từ thời nào chở đầy người chạy về hướng Nam Vang, tôi vẫy vẫy tay, nhưng xe nào cũng thản nhiên chạy luôn. Bụi tung mù mịt cả con đường. Đi bộ hai tiếng đồng hồ vẫn chưa xin được xe nào cho đi ké. Trời nóng như đổ lửa. Mồ hôi tuôn chảy trên mặt và ướt hết áo ở vùng ngực và lưng. Tôi vào một bóng cây nghỉ mệt, lấy bi đông nước uống vài ngụm. Đường còn xa vời vợi, lội bộ kiểu này biết chừng nào đến Nam Vang. Vừa than thầm thì hên thiệt, có chiếc xe GMC từ xa chạy tới. Tôi nhào ra quơ tay loạn lên. Thiệt may, xe ngừng lại. Trên xe toàn lính Hensamrin. Tôi hỏi tài xế bằng tiếng Miên: - Bòn tu PhnomPenh ? ( Anh đi Nam Vang ? )

Người tài xế Miên nhe hàm răng có mấy cái răng vàng, cười, gật đầu. Mừng quá, tôi nhảy ngay lên xe. Chiếc xe phóng ào ào về phía trước. Mấy người lính Hensamrin cùng gật đầu chào tôi. Tôi cũng cười thân thiện, gật đầu chào lại. Hồi còn ở bộ đội, có thời gian tôi làm Văn thư Tiểu đoàn huấn luyện tân binh Campuchia. Những tân binh này rất hiền hậu, dễ dạy. Họ tùng phục bộ đội Việt Nam có lẽ vì thù hận Khmer Đỏ hung tàn đã giết hại người thân của họ. Họ vào lính để trả thù. Mọi người thường gọi họ là lính Hensamrin vì thời kỳ này, Hensamrin là Chủ tịch Hội đồng nhân dân cách mạng nước Cộng hòa nhân dân Campuchia do cộng sản Việt Nam lập lên, sau khi đánh đuổi Khmer Đỏ của tên đồ tể Polpot chạy tuốt về biên giới Miên – Thái.

Xe tới Nam Vang. Nhìn đồng hồ, đã 3 giờ chiều. Tôi bắt tay từng người lính trên xe, cảm ơn tài xế rồi tà tà đi vào phố. Thấy phiá trước có chợ, tôi lò dò đi tới kiếm món gì ăn qua bửa. Sinh hoạt mua bán của người dân còn vắng vẻ. Trên nét mặt của nhiều người vẫn còn in đậm nét khắc khổ, hoảng loạn vì bốn năm bị đầy ải kinh hoàng trong chế độ Khmer Đỏ. Khi Khmer Đỏ do Polpot lãnh đạo tiến vào Nam Vang chiếm chính quyền, tất cả người dân đủ mọi thành phần bị lùa ra khỏi thành phố. Thủ đô Nam Vang trở nên một thành phố chết, không có cư dân sinh sống. Với quyết tâm nhanh chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Khmer Đỏ đã cai trị người dân Campuchia bằng phương cách tàn bạo “vô tiền khoáng hậu”.

Họ thành lập các công xã, nông xã, cưỡng ép người dân lao động khổ sai suốt đêm ngày. Bệnh tật, đói khát và bị Khmer Đỏ ác độc thanh trừng, hành hình, người dân Campuchia đã bị chết hết phân nửa dân số thời bấy giờ. Khoảng hai triệu người dân Campuchia có lẽ không tiêu tán linh hồn vì chết đi trong sự sợ hãi, căm hận, uất ức tận cùng. Họ bị giết hại bằng nhiều cách dã man : búa đập vào đầu, mã tấu cứa cổ từng nhát, hay bị quật mạnh thân người vào cây cho đến chết. Sọ người, xương trắng chất đầy đồng. Từ khi bộ đội Việt Nam chiếm lại Nam Vang, ngày 7 / 1 / 1979, người dân mới tứ phương lục tục về lại thủ đô. Đến nay, chỉ hơn năm rưởi, nên thành phố vẫn chưa kịp hồi sinh để trở thành môt thủ đô có sinh hoạt đông vui, nhộn nhịp.

Ăn xong tô hủ tíu ở chợ, tôi đi vòng vòng. Đường phố vắng ngắt. Những dãy nhà hai bên đường im lìm không có bóng người. Thấy chán, tôi trở lại khu chợ tìm phương tiện đi Batambang. Tôi đã nghiên cứu kỹ bản đồ Campuchia từ hồi còn làm nhân viên Đồ bản ở Tiểu ban tác chiến, Trung đoàn bộ trung đoàn 55. Vì có ý định sẽ vượt biên đường bộ, tôi đã vẽ sẵn và cất kỹ sơ đồ lộ trình từ thành phố Kampongcham đến Poipet, một thị trấn sát biên giới Miên – Thái. Gần chợ có ga xe lửa, nhưng không thấy bán vé cho khách. Một xe lửa đang chuẩn bị khởi hành. Vài người Miên đang chất hàng lên toa xe. Ở một toa khác, một số lính Hensamrin cũng xục rục khiêng các kiện hàng chất lên, rồi cùng nhảy lên toa. Tôi đến hỏi đại, cũng vẫn câu đơn giản : “Bòn tu Batambang ?” ( Anh đi Batambang ? ). Hên quá, họ gật đầu. Tôi định nhảy lên toa của họ nhưng đã chật cứng hàng và người. Tôi liền chạy dọc theo các toa khác. Thấy một toa có nhiều lồng tre nhốt heo, gà, vịt, tôi nhảy lên đại, vừa lúc xe lửa chuyển bánh. Tôi phải chịu đựng mùi hôi của các gia súc này suốt ba tiếng rưởi mới tới Batambang. Trời đã hoàng hôn. Đi vào một dãy phố vắng, còn vài đồng, tôi mua mấy củ khoai mì, khoai lang, ăn hai củ, còn lại cất vào ba lô. Theo lộ trình, phải đi Xixiphon rồi đến thị trấn Poipet.

Hay bây giờ, từ Batambang này cứ lội bộ nhắm hướng Tây đi mãi cũng tới Thái. Nghĩ vậy, tôi rời khỏi phố đi dần ra ngoại ô, qua nhiều xóm dân, băng ngang cánh đồng thì một con sông hiện ra trước mắt. Nước sông đen ngòm trong bóng tối. Sông chắc lớn lắm vì không thấy bờ bên kia. Trở ngại rồi đây. Đứng lưỡng lự một hồi, tôi quay về Batambang. Trở lại khu phố vắng, trời đã khuya.

Tôi vào một nhà dân Miên xin ngủ nhờ. Người đàn bà Miên lắc đầu từ chối. Chà ! Ở đây dân Miên không sợ bộ đội Việt Nam. Tôi vội lấy ra cái mùng lính đưa cho bà. Có sự trao đổi, bà mới chịu để tôi vào nhà. Nằm trên cái võng mắc giữa hai cột nhà, tôi ăn hết mấy củ khoai rồi ngủ ngon lành tới sáng. Thức dậy, tôi lấy một bộ quần áo dân sự trao đổi với chủ nhà một dĩa cơm ăn tại chổ và một phần cơm mang theo.

Rời nhà bà Miên, tôi thong thả ra khỏi phố và đi theo đường lộ nhựa hướng về Xixophon. Nửa tiếng sau đến một trạm kiểm soát của bộ đội Việt. Tôi hồi hộp xuất trình giấy tờ cho kiểm soát viên. Anh xem tới, xem lui, hỏi :
- Anh đi phép gì lâu dữ, từ tháng bảy tới giờ là cuối tháng 11 mới về đơn vị ?

Tôi hơi bối rối nhưng kịp bịa chuyện :
- Tại má tôi bệnh nặng, tôi phải lo chăm sóc má. Bây giờ về trình diện đơn vị. Đành chịu kỷ luật thôi.
- Được rồi. Anh đi đi.

Vừa lúc đó, có chiếc xe GMC của bộ đội Việt chạy tới ngừng trước trạm. Tôi hỏi anh tài xế :
- Các anh đi về đâu vậy ?
- Về Siêm Riệp. Anh đi đâu ?
- Tôi đi Xixophon.

Anh tài xế cười :
- Vậy cũng đỡ cho cái chân anh một đoạn đường dài. Leo lên. Nhanh đi.

Tôi mừng, leo lên xe ngay. Xe chạy ào ào, gió thổi mát rượi. Một tiếng sau tới ngã ba, xe ngừng lại cho tôi xuống rồi chạy tiếp về hướng Siêm Riệp. Hồi nãy cũng may, kiểm soát viên xem tờ giấy đi phép, chẳng biết trung đoàn 55 đóng quân ở đâu. Nếu anh biết đơn vị tôi đang ở Kampongcham thì sẽ đoán ra ngay tôi đang đi vượt biên.

Đi bộ trên con lộ lồi lõm ổ gà thêm một tiếng thì đến Xixophon. Trời đã trưa. Tìm một chổ kín đáo, ngồi ăn nốt phần cơm xong, tôi cởi bỏ đồ bộ đội, mặc vào bộ quần áo dân sự. Chỉ một chặng đường vài chục cây số nữa là tới thị trấn Poipet. Ở đây gần biên giới có nhiều đơn vị bộ đội, không thể mặc quân phục và dùng tiếp tờ giấy phép cũ nữa. Sẽ lộ tẩy. Quăng luôn cái ba lô, tôi nhẹ người, đi theo con đường đất rộng hướng đến Poipet. Mười lăm phút sau, trước mặt tôi có trạm kiểm soát của bộ đội Việt. Chung quanh là đồng ruộng mênh mông. Tôi vòng ra thật xa, cách trạm kiểm soát khoảng 300 mét, rồi lội ruộng lúa, nhắm hướng Tây đi tới. Bì bõm trên ruộng nước ngập đầu gối được nửa tiếng, tôi vòng lại con lộ đất. Đường rộng thênh thang, tôi mãi miết đi. Chẳng biết bao lâu, hai chân rã rời mà chưa thấy thị trấn Poipet đâu. Mặt trời đã ngã hẳn về Tây. Con đường vẫn xa hun hút trước mắt. Tôi rán tiếp tục bước. Trời nhá nhem tối. Đi thêm một quãng nữa, thấy có vài người dân Miên phía trước chạy ngược lại, tôi kêu lên :
- Bòn. Bòn. Bòn tu na ? ( Anh. Anh. Anh đi đâu ? )

Anh dân Miên đến gần tôi, chỉ tay về hướng Poipet, trả lời :
- Polpot chờ rờn, chờ rờn ( Lính Polpot nhiều lắm, nhiều lắm )

Lại trở ngại ! Biết đi ngã nào nữa bây giờ. Đứng tần ngần giữa lộ một hồi lâu, tôi quyết định vòng ra cánh đồng ở bên trái đi tiếp. Lại bì bõm từng bước chân trên ruộng. Bụng đói cồn cào. Thấy có con cò trắng sa dưới nước, tôi chộp ngay. Tiếp tục lội ruộng một lúc nữa thì lên được bờ ruộng. Trong cơn đói, nhìn con cò trên tay thấy thèm. Nhưng giữa đồng không mông quạnh, không có lửa, không biết cách nào để ăn thịt, tôi lại quăng con cò. Đi hết thửa ruộng, trước mắt tôi lại hiện ra con sông lớn, nước chảy cuồn cuộn. Hết cách, tôi buồn rầu quay trở lại con đường đất. Màn đêm buông xuống. Tôi ngồi bệt bên lề đường, gục đầu, lòng rối bời. Mệt mỏi, tôi nằm dài xuống đất. Chẳng biết bao lâu, bổng có tiếng gọi bên tai : “Bòn. Bòn”. Cùng với tiếng gọi là bàn tay ai cầm cánh tay tôi lay mạnh và gọi nữa : “Bòn. Bòn”. Tôi lồm cồm ngồi dậy. Người đàn ông nhìn mặt tôi cùng cách ăn mặc : áo sơ mi trắng sọc xanh và quần Jean ống loa, đoán ra tôi là người Việt. Anh hỏi bằng tiếng Việt :
- Anh sao vậy ? Phải anh đi vượt biên không ?

Biết không thể nào chối, lại thấy anh biết tiếng Việt, tôi mừng, gật đầu :
- Vâng. Tôi đi đến đây thì nghe phía trước có lính Polpot cản đường, đi vòng thì có sông chắn lối. Tôi mệt quá nên nằm đây. Anh. Anh đừng cho ai biết nhen.

Người đàn ông nở nụ cười hiền hậu :
- Anh đừng lo. Tôi là người Việt gốc Hoa. Chuyện người Việt vượt biên đi qua đường này thì tôi gặp nhiều rồi. Về nhà tôi đi.

Tôi lẽo đẽo theo anh. Nơi anh ở là căn nhà mái tôn xập xệ ở ven đường. Vào nhà, anh ân cần hỏi :
- Chắc anh đói bụng lắm phải không ? Không đợi tôi trả lời, anh nói :
- Anh ngồi đi, tôi lấy cơm cho anh ăn.

Mười phút sau, anh đem ra cho tôi một dĩa cơm có hai con cá khô. Tôi cảm ơn anh rồi bưng dĩa cơm, ăn ngấu nghiến thoáng cái đã hết sạch. Anh rót nước trà cho tôi, nói :
- Khoảng đường phía trước thường bị lính Polpot mò ra quấy nhiễu, anh không đi được đâu. Nhiều người vượt biên đến đó bị chúng bắt, trấn lột hết vàng, bạc. Con gái thì bị chúng hãm hiếp thê thảm lắm. Ngày mai, tôi sẽ giúp anh đi con đường khác.

Tôi nắm tay anh lay lay :
- Được anh giúp đỡ, tôi biết ơn anh lắm. Anh cho tôi biết tên anh được không ?
- Tôi tên Cheng. Tôi sanh ở Miên nhưng má tôi người Việt, cha người Hoa. Rồi anh chỉ về cái giường tre ở sát vách đất, nói tiếp : - Thôi, anh ngủ đi cho khỏe. Mai tôi chở anh đi.
- Dạ. Cảm ơn anh.

Sau một ngày rã rời đôi chân, nằm xuống cái giường tre ọp ẹp, tôi ngủ ngay. Sáng dậy, anh Cheng cũng cho tôi dĩa cơm cá khô. Chờ tôi ăn xong, anh lấy ra một bộ đồ, nói :
- Anh phải mặc đồ cũ này. Chứ mặc đồ thời trang mới toanh vầy, bộ đội Việt hay lính Polpot biết ngay anh là dân vượt biên, bắt giữ ngay.

Nghe lời anh, tôi thay đồ, mặc cái quần sọt cũ màu xanh rêu đậm rách tưa hai ống và cái áo thung cũ màu xám lốm đốm vết bùn đen. Trông ra vẻ dân Miên lắm. Anh đạp xe chở tôi chạy về lại thị trấn Xixophon, rồi quẹo qua một con đường đất khác. Anh ngừng xe lại, chỉ tay về phía trước :
- Anh cứ đi theo đường này, khoảng mười mấy cây số thì gặp một làng dân ở bên phải. Nơi đó thường tụ tập dân buôn qua Thái. Anh cứ đi theo họ.

Tôi ôm choàng qua hai vai anh, nói trong xúc động :
- Thật là Ơn Trên thiêng liêng phù hộ tôi nên mới có anh Cheng tận tình giúp đỡ. Tôi sẽ luôn nhớ ơn anh.
- Không có gì đâu. Mình cùng là người Việt mà. Chúc anh đi bình an.
- Dạ. Tôi cũng chúc anh luôn mạnh khoẻ, nhiều may mắn trong đời sống.

Đã 12 giờ trưa. Theo lời dặn của anh Cheng, tôi rảo bước đi nhanh dưới trời nắng chang chang. Hai bên đường là đồng ruộng mênh mông. Dù mệt, mồ hôi nhễ nhại, tôi vẫn rán bước. Đến xế chiều, quả nhiên có làng dân ở bên phải. Tôi đi vòng vòng trong làng tìm đám dân buôn. Vào khu chợ làng, thấy có đông người tụ tập trao đổi hàng hóa và ăn uống, tôi ngồi ở một mái hiên nhà dân chờ đợi.

Trời chạng vạng. Từng người, từng người tản đi hết, mỗi người một hướng. Tôi chẳng biết ai là dân buôn và cũng chẳng biết nên theo ai. Khi chợ làng không còn bóng người, tôi lủi thủi ra khỏi làng. Gặp một đường đất nhỏ, tôi đi đại theo hướng Tây. Tới một khu nhà tranh, chợt nghe có giọng người nói tiếng Việt ở phía trước, tôi đứng lại lắng tai nghe :
- Ê Trung. Con “ghệ” mày còn chung tình với mày không ?
- Chung tình mẹ gì ! Vừa rồi về phép Sài Gòn, rủ đi chơi, nó nói có người yêu mới rồi.
- Sao mày không cho nó vài tát, thoi nó vài thoi cho bỏ ghét.
- Thôi, mình là bộ đội nghèo rớt mùng tơi, nó bỏ cũng phải. Không tiền thì không tình !

May nghe họ nói chuyện mới biết có bộ đội Việt đóng quân nơi đây. Tôi quẹo qua hướng khác. Trời tối hù, lại đổ mưa. Tôi chạy thật nhanh về phiá trước, gặp được một xóm lều. Chui đại vào một căn lều lụp xụp, tôi gặp một ông già. Nhìn mặt tôi, ông biết ngay tôi là người Việt nên hỏi :
- Cháu vượt biên phải không ?

Thêm một lần may mắn nữa khi gặp người biết nói tiếng Việt, tôi mừng rỡ trả lời :
- Dạ. Dạ. Xin bác cho con trú mưa, ngủ qua đêm, mai con đi.
- Ờ. Nhưng không có giường cho con nằm. Bác chỉ có cái chõng tre này vừa đủ mình bác.
- Dạ không sao. Con ngồi ngủ cũng được. Sao bác biết tiếng Việt hay vậy ?
- Cha bác người Việt, mẹ người Campuchia
- Dạ. Bác ơi, bác có gì cho con ăn không ? Con đói bụng lắm.

Ông già lom khom đến giở nồi vét hết cơm, cũng được một tô đầy đưa cho tôi. Ông niềm nở nói :
- Cháu ăn đỡ cơm với muối trắng nhen. Bác đang tị nạn chiến tranh.nên nghèo lắm. Họ đánh nhau làm cháy hết nhà cửa. Bác và nhiều người phải ở tạm nơi đây chờ nhà nước giúp đỡ. Thôi, bác đi ngủ đây.
- Dạ. Con cảm ơn Bác.

Đói bụng, dù cơm muối trắng ăn vẫn ngon. Trong một thoáng, tôi đã ăn hết tô cơm. Mưa trút nước như thác đổ. Căn lều chao qua, chao lại theo từng cơn gió rít lên trong mưa. Ông già vẫn tỉnh bơ nằm trên cái chõng tre ngáy khò khò. Trên người ông chỉ đắp một cái mền mỏng. Tôi ngồi dựa vào chõng của ông. Thỉnh thoảng có cơn gió mạnh, nước mưa tạt vào ướt cả người. Lạnh buốt. Gần sáng, trời tạnh mưa. Tôi ngồi ngủ luôn một giấc đến trưa. Ông già đã nấu cơm xong, bới cho tôi một tô. Ăn xong, tôi hỏi ông đường đi đến Thái. Chỉ tay về hướng rừng, ông nói ở đó thường có dân buôn tụ tập, đi theo họ sẽ tới Thái. Tôi vòng tay cảm ơn ông rồi vội vã chạy ra khu bìa rừng. Nhiều dân buôn đang đứng tụm lại thành mấy nhóm, cười nói ồn ào. Vài người ngồi chồm hổm ăn uống ở hai gánh hàng rong. Tôi đứng xớ rớ gần đó. Một tiếng sau, vài người nói :
“ Tu. Tu “ ( Đi. Đi ). Dân buôn lũ lượt kéo nhau vào con đường mòn trong rừng. Tôi trà trộn vào đoàn người, lầm lủi đi theo. Tiếng rưởi sau, bổng nhiên mấy tốp dân buôn phía trước hốt hoảng chạy ngược lại, vừa chạy vừa la : “Bòn oanh, bòn oanh…Polpot… Polpot chờ rờn, chờ rờn” ( Anh em, anh em…Lính Polpot…Lính Polpot nhiều lắm, nhiều lắm. ). Cả đoàn dân buôn quay người bỏ chạy. Tôi cũng chạy theo họ. Một tiếng sau mới về lại nơi xuất phát. Rồi từng tốp, từng tốp tản mác đi.vào làng. Còn lại một mình tôi chơ vơ ở bìa rừng. Làm sao đây ? Phía trước có lính Khmer Đỏ cản lối, về lại Sài Gòn thì không tiền đi đường. Rối trí quá, tôi nằm dài ra trên đất. Đi đã khó mà về lại cũng khó. Không tiền đi đường đã đành, còn có thể bị bộ đội Việt bắt giữ. Hoàng hôn dần buông. Tới lúc phải dứt khoát định đoạt vận mạng cuộc đời mình. Đã ra đi không thể trở về, phải tiếp tục đi. Hoặc chết, hoặc có được tự do. Nếu trên đường mòn có lính Khmer Đỏ trấn giữ thì nên băng rừng đi, sẽ né được chúng. Tôi đứng dậy, đi qua, đi lại suy nghĩ thêm quyết định vậy có đúng không. Sau cùng, mặc kệ, ra sao thì ra, tôi liều mạng đi thẳng vào rừng. Lúc đó là 7 giờ tối ngày 4 / 12 / 1980.

Vượt Biên Giới

.** Nước Thái ở hướng Tây Campuchia. Khi mới vào rừng, tôi cứ nhắm hướng Tây đi tới, gần gần con đường mòn, để tránh bị lạc hướng. Lần lần, có nhiều cây rừng rậm rạp che khuất, hoặc nhiều vũng bùn lầy rộng chắn lối, tôi phải đi vòng đến những nơi thưa cây nên xa dần đường mòn, bị lạc luôn trong rừng. Trời không trăng. Trong đêm tối, tôi phải vẹt cây gai, cây dại dầy đặc nên tốc độ đi rất chậm. Thời khắc trôi qua theo từng bước chân, tôi chẳng biết đi được bao xa rồi. Nếu muốn quay về cũng không biết đi theo hướng nào. Thôi, cứ bước tới. Tối nay tìm chổ ngủ sớm, đợi ngày mai xem mặt trời, sẽ dễ định ra hướng Tây. Rán đi tiếng nữa, bụng cồn cào. Tôi chợt nhớ từ xế chiều đến giờ chưa ăn gì. Nhịn đói thôi. Mai tìm trái cây rừng để ăn. Đến một vũng nước, tôi vốc nước uống đầy bụng rồi đi tiếp. Hai năm trước theo đơn vị hành quân, vài lần đóng quân trong rừng, nhưng có đồng đội chung quanh, nên không có gì sợ hay buồn. Bây giờ, một mình trơ trọi, chung quanh là màn đêm thăm thẳm, tôi thấy sợ sợ. Thêm cái cảm giác thật cô đơn, buồn bã khi nhìn lại mình như một bóng ma trơi trong rừng đêm. Thấm mệt rồi, nhịn đói ngủ thôi.

Bứng nhiều bụi cỏ đem đến lót nơi một lùm cây rậm rạp. Tiết trời mùa đông ban đêm, lúc đi không thấy lạnh, nhưng khi nằm xuống cỏ, thấy lạnh kinh khủng. Chỉ mặc cái quần sọt và áo thun ngắn tay mỏng manh, nên cả người tôi run lên cầm cập. Tôi nằm co quắp người lại cố dỗ giấc ngủ. Cái lạnh, cái đói hành hạ, lại có nhiều tiếng ù u, ù u vang vang ở xa xa, và tiếng sột soạt của thú rừng đi ăn đêm, tôi không thể nhắm mắt. Thao thức đến trời tờ mờ sáng, tôi ngủ luôn một giấc say sưa. Thức dậy, đã 12 giờ trưa. Nắng chang chang chói hai con mắt. Tội tìm vũng nước rửa mặt và vốc nước uống. Mặt trời ngay trên đỉnh đầu. Thế này, biết hướng nào là hướng Tây ? Giải quyết cái đói trước đã. Tôi đi vòng vòng tìm trái cây rừng. Tìm cả tiếng vẫn không thấy một loại cây nào có trái. Mặt trời đã hơi nghiêng về phía Tây. Nhịn đói đi vậy. Tôi phải luồn lách qua nhiều khu cỏ gai, tránh những đám cây rậm, vòng qua những đầm nước rộng, nên có lúc phải rẽ sang Nam, lúc quẹo qua Bắc, rồi mới tiếp tục đi theo hướng Tây. Mệt thì ngồi nghỉ chút, thấy đói thì uống nước vũng cầm hơi. Đi sáu tiếng rồi vẫn không thấy biên giới Thái đâu.

Mặt trời dần tắt nắng. Bóng tối dần phủ xuống cả khu rừng. Tôi lại phải dò dẫm đi từng bước. Gai cào sướt khắp tay, chân, đau buốt. Bao tử, ruột, gan muốn nát vụn vì sự cào cấu của cơn đói. Hai ngày rồi không ăn gì. Lần đầu tiên tôi mới thấm thía cái đói thật sự như thế nào. Thèm cho vào bụng bất cứ cái gì, dù là vỏ cây, lá cây hay cỏ dại để có thể qua được cơn đói. Tôi còn đủ lý trí không làm như vậy vì sợ bị trúng độc, sẽ ngã bệnh. Bệnh nặng trong cảnh một thân, một mình nơi rừng sâu lạnh lẽo thế này đồng nghĩa với cái chết. Sẽ bỏ xác trong rừng sâu không ai biết đến. Chỉ còn biết uống nước vũng dằn bụng.

Rán đi thêm hai tiếng nữa, tôi lại bứng cỏ lót chổ nằm trong lùm cây rậm. Vừa chợp mắt ngủ được một chút thì mưa gió trùm phủ khu rừng. Tôi ngồi dậy, co rúm người vì lạnh. Nước mưa tạt xối xả lên người. Tôi chui vào một bụi cây rậm nhất, vẫn không tránh được nước mưa. Người tôi run lên từng hồi như bị mắc kinh phong. Mưa càng lúc càng to. Gió rít liên hồi, cây rừng nghiêng ngã. Đến sáng, mưa bớt dần, không dứt hẳn. Suốt đêm không ngủ, phải chịu đựng mưa gió, tôi mệt quá, nhưng cũng cố gắng lên đường. Đi loanh quanh suốt buổi trong trời mưa rỉ rả. Lại xui, đôi dép bị đứt quai. Đành đi chân không. Rừng thẳm âm u trong cảnh trời tù mù không thấy mặt trời kéo dài năm ngày liền. Tôi không phân biệt được phương hướng, cứ đi lòng vòng mãi. Chỉ thấy rừng tiếp nối rừng. Đi chân không trong rừng là cả một cực hình. Hai chân chảy máu, bắt đầu sưng lên. Tôi đi cà nhắc từng bước một. Nhịn ăn bảy ngày rồi. Bao tử đã tê liệt nên tôi không còn cảm giác biết đói nữa. Nước vũng kéo dài sinh mạng tôi. Thân xác rã rời, nhiều khi ngất xỉu, không biết bao lâu, tỉnh dậy lại loang choạng bước đi. Tôi không còn ý thức ngày và đêm nữa, có lúc cảm thấy tuyệt vọng lắm. Quý ơi ! Mày không thể chết lặng lẽ trong rừng sâu thế này. Phải sống, phải tiến tới để tìm được bến bờ tự do. Tôi quỳ xuống khấn nguyện Ơn Trên thiêng liêng phù hộ cho tôi vượt thoát khu rừng. Với ý chí sinh tồn mạnh mẽ, cùng với niềm tin có Ơn Trên cứu độ, tôi cứ cà nhắc từng bước đi tới.

Mưa đã dứt hẳn. Tôi có được một đêm ngủ thật say đến 2 giờ trưa hôm sau. Có sức lực, thêm trời nắng tốt và mặt trời chỉ hướng Tây, tôi lần ra được dấu vết xe bò hằn trên cỏ. Đi theo đường xe bò bốn tiếng, rừng thưa dần, và trước mặt tôi là một khu vườn chuối. Đã ra khỏi rừng. Tính ra, tôi bị lạc trong rừng tám ngày, đêm. “Được sống rồi…Được sống rồi !” Tiếng reo to của tôi đem đến sự hiểm nguy. Hai tên lính Polpot không biết từ đâu lù lù hiện ra. Tôi bị chúng chỉa súng đưa đến một căn nhà tranh lụp xụp trong vườn chuối. Lúc đó, có sáu người vượt biên khác cũng đang bị một toán lính Polpot dẫn tới. Chúng tôi bảy người, bốn đàn ông và ba phụ nữ trẻ đẹp bị chúng bắt cởi hết quần áo. Hai tên đứng chỉa súng, bốn tên lục các quần áo tìm vàng, bạc. Còn ba tên lần lượt khám xét từng người chúng tôi để lấy nữ trang, đồng hồ. Tôi chỉ có cái đồng hồ đeo tay bị chúng lột ngay. Ba người phụ nữ bị hai tên lính vừa khám xét lấy nữ trang vừa mò mẫm khắp chổ kín. Lục xét xong, chúng cho bốn đàn ông được mặc đồ lại và ngồi xuống một góc nhà, còn ba phụ nữ vẫn bị bắt đứng trần truồng như nhộng trước mắt mọi người.

Trời chạng vạng, bọn lính Polpot tụm lại ăn cơm. Họ không cho chúng tôi ăn uống gì. Cơm nước xong, ba tên cầm súng ra đứng canh trước cửa, sáu tên còn lại trong nhà kéo ba cô gái nằm xuống đất để thỏa mãn dục vọng. Các cô dẫy dụa, la hét, van xin. Nghe tiếng nói, tôi nhận ra một cô người Việt, hai cô người Tàu. Mặc cho các cô kêu gào, khóc lóc thảm thiết, chúng vẫn thay phiên nhau hãm hiếp. Thừa lúc lộn xộn, tôi rón rén chui ra một lổ hổng nơi xó nhà và từ từ bò ra vườn chuối. Khi bò khá xa căn nhà tranh, tôi đứng dậy đi cà nhắc theo đường xe bò. Nhiều tiếng súng nổ sau lưng. Với lòng cầu sống, dù chân bị sưng, tôi vẫn chạy thục mạng, nhanh như gió. Không biết bao lâu, đuối sức, tôi nằm ngã ra trên một bãi cỏ. Máu chảy dầm dề ở hai bàn chân, nhức nhối không tả xiết.

Trời tối đen. Chung quanh yên tĩnh. Giờ này cũng khuya. Tôi cố gắng vẹt cỏ tranh bò tới. Đường xe bò được tiếp nối bằng một con đường đất khá rộng. Tiếp tục bò theo con đường đất, khoảng tiếng sau, trước mắt tôi hiện ra một bờ hào cao, dài tít tắp, có bóng người lính cầm súng đứng trên một vọng gác. Tôi đoán đây là biên giới Thái. Lòng mừng rỡ như được thấy cha mẹ sống lại, tôi chậm chạp bò đến gần bờ hào. Nhờ trời tối, lính Thái không nhìn thấy, tôi vượt qua biên giới Thái dễ dàng. Con đường dẫn đến bến bờ tự do đang thênh thang phía trước. Tôi không ngờ… vẫn còn nhiều hiểm nguy đang chờ đón tôi !
Vướng Cảnh Lao Tù

.** Qua khỏi biên giới, trước mắt tôi là đường lộ nhựa. Quên hẳn cơn đau của hai bàn chân, tôi đứng dậy đi tới. Khoảng 30 phút sau, thấy có nhiều ánh đèn leo lét trong những ngôi nhà ở xa xa hai bên đường, tôi đoán là nhà dân nên quẹo vô một lối mòn, đi đến khu nhà bên trái. Tôi vào trúng một căn nhà bếp, có sẵn cơm, thức ăn trong vài cái nồi trên bếp. Đã nhịn đói suốt tám ngày, nên quên chuyện phải xin phép chủ nhà, tôi vội lấy dĩa, muỗng bới cơm, lấy thức ăn. Trong lúc vội vàng, tôi làm rớt cái nắp nồi gây nên tiếng động lớn trong đêm. Có tiếng người chạy đến. Tôi nhảy ngay xuống đường mương sau bếp. Vài phút sau, một họng súng M16 chỉa xuống đầu tôi. Thì ra đây là trại lính Thái. Tôi bị bắt, đưa vào một ngôi nhà rộng. Tôi nói bằng tiếng Anh là tôi đói bụng lắm, họ lấy cho tôi dĩa cơm với trứng chiên. Tôi ăn ngấu nghiến thoáng cái đã sạch dĩa. Vừa ăn xong, tôi bị một anh lính Thái chỉa súng lục vào đầu, tra khảo :
- Are you vi xi ? ( VC )

Hiểu họ đoán tôi là bộ đội Việt cộng, tôi vội trả lời :
- No vi xi. I am student from Saigon.
- Why you coming here ?
- I looking for freedom. I just want to go to America

Anh lính Thái gằn giọng : - I don’t believe. You are vi xi. Ngay sau câu nói là anh đấm vào mặt tôi, và hét lớn : - You, vi xi., vi xi.

Tôi cũng hét lên : - No ! I am not a vi xi.

Người lính Thái càng tức giận, đấm, đá tôi liên tục, còn lấy súng lục nện vào đầu tôi. Vừa khi thấy máu đầu chảy xuống lênh láng trên mặt, trên áo thì tôi ngất xỉu. Sáng tỉnh dậy, đã thấy một người lính Thái già đứng trước mặt. Ông nói tiếng Việt :
- Tôi là trung tá, tư lệnh ở đây. Sao em bị đánh như vầy ?

Tôi mếu máo :
- Dạ. Họ nói em là Việt cộng nên đánh em. Em là sinh viên ở Sài Gòn đi tìm tự do. Vừa nói, tôi vừa lấy ra bọc ni long có vài hình ảnh người thân và thẻ sinh viên đưa cho ông, nói tiếp :
- Ông xem giùm, em là sinh viên trường đại học Văn khoa. Em vượt biên qua đây để xin đi Mỹ.

Ông trung tá Thái xem qua giấy tờ, gật đầu :
- Được rồi. Em chờ đây, chút có xe đến chở em vào trại tị nạn. Hồi trước tôi có tham chiến tại miền Nam Việt Nam. Tôi có vợ Việt ở Gia Định. Em an tâm nhé.

Mừng quá, tôi yên trí ngồi chờ. Khoảng nửa tiếng sau, xe đến chở tôi đi, nhưng không chở đi trại tị nạn mà chở đến Ty công an A Ran. Công an Thái tịch thu hết giấy tờ, hình ảnh trong bọc ni long của tôi và tống tôi vào nhà tù. Sau ba ngày giam giữ, họ chở tôi vào trại lính Khmer Tự do ở trên phần đất Campuchia sát biên giới Thái. Tôi cứ đinh ninh đây là thủ tục phải như vậy trước khi được cho vào trại tị nạn. Ngờ đâu, lính Khmer Tự do đem nhốt tôi vào một cái chuồng gỗ thấp lè tè, phải khom khom người khi xê dịch. Trong chuồng gỗ đã có hai thanh niên người Việt gốc Hoa. Một người có vẻ lớn tuổi hơn cho biết họ là anh em ruột, ở Chợ Lớn, bị bắt nhốt vào đây nửa tháng rồi. Hàng ngày, chúng tôi bị lính Khmer Tự do bắt đi lao động, đào hầm, hố, đốn cây, chẻ củi. Họ cho chúng tôi ăn ngày hai bửa cơm trắng với muối. Mỗi cuối tuần được ăn một bửa cơm với cá hộp. Tôi lo lắng, không biết phải chịu đựng kiếp lao tù này đến lúc nào ?!. Một buổi trưa, sau khi đào xong cái mương, được cho ngồi nghỉ, tôi hỏi một anh lính Khmer Tự do biết tiếng Việt :

- Anh có biết chúng tôi chừng nào được cho vào trại tị nạn không ?
- Không biết nữa. Khi nào “ông lớn” thấy vui thì thả các anh.

Tôi than thở :
- Tôi bị nhốt ở đây gần tháng rồi. Biết chừng nào “ông lớn” vui đây ? Anh có thể thả tôi đi không ?
- Đâu được. Anh muốn tôi bị nhốt như anh hở ? Ông lớn nghiêm lắm.

Tôi hỏi dò :
- Hình như trại tị nạn ở gần đây phải không anh ?
- Ừa. Có trại tị nạn NW9 cách đây hai cây số.

Tôi chỉ ra hướng con đường ở xa xa ngoài trại lính, hỏi :
- Thỉnh thoảng tôi thấy có xe Jeep cắm cờ thập tự đỏ chạy ngang. Họ là ai vậy ?
- Là Hồng thập tự Quốc tế. Họ lo cho dân tị nạn trại NW9, và cũng thường cung cấp gạo cho trại lính chúng tôi để đổi lấy người tị nạn bị “ông lớn” bắt giữ.
- Vậy sao “ông lớn” các anh không trao đổi chúng tôi ?
- Thì vừa rồi tôi có nói, khi nào ‘ông lớn” vui sẽ trao đổi các anh để lấy gạo.

Được anh nói chuyện cởi mở, tôi hỏi thêm :
- Các anh có phải lính của chế độ Lonnol không ?
- Phải, nhưng bây giờ là lực lương Khmer Tự do của tướng Sonsann.
- Tôi cũng có người anh rễ phục vụ trong chế độ Lonnol từ năm 1970. Anh rễ tôi tên Thạch Vọng, cấp bực sau cùng là thiếu tá.

Anh lính Miên ngạc nhiên :
- Hả ? Thiếu tá Thạch Vọng hả ? Phải ổng có vợ người Việt không ? Bả tên Mùi, có hai con trai.

Tôi muốn hét lên, nhưng kịp ngăn lại, nói trong xúc động :
- Đúng rồi. Đúng rồi…Anh chị của tôi đó. Rồi tôi hỏi dồn dập :
- Anh quen với ảnh chỉ hở ? Bây giờ ảnh chỉ ở đâu ? Có ở đây không ?

Người lính Miên lắc đầu :
- Chết hết rồi. Khi Polpot vào Nam Vang, đơn vị do ông Vọng chỉ huy rút vào rừng kháng chiến, đóng trại gần biên giới Thái. Được một thời gian, lính Polpot tấn công vào trại, tiêu diệt tất cả. Ông bà thiếu tá Vọng và hai con trai đều bị chúng giết.

Tôi sững sờ trước cái tin buồn bất ngờ này. Niềm hy vọng có ngày anh chị em được trùng phùng đã tan thành mây khói ! Tôi bật khóc nức nở. Tối hôm đó, tôi không ngủ được. Hình ảnh chị Mùi, anh Vọng và hai cháu cứ chập chờn trong đầu tôi. Vậy là hết, anh Phùng, anh Thiện, em Hỷ đã mất vì đất nước, bây giờ thêm tin chị Mùi chết thảm cùng với gia đình, tôi thật sự không còn người thân ruột thịt nào nữa ở trên đời !

Biết được ngoài trại có xe Hồng thập tự thường chạy ngang qua, tôi lập kế hoạch trốn thoát. Sau hơn một tháng bị nhốt, lao động khổ sai, tôi không thể chờ đợi thêm cái ngày được “ông lớn” của trại Khmer Tự do này vui vẻ tha cho. Một buổi chiều, sau giờ lao động gần con đường lớn ngoài trại, tôi giả vờ đau bụng và xin phép người lính Miên cho tôi đi giải quyết. Người lính Miên đứng chờ. Tôi chui vào một lùm cây rậm. Khi thấy người lính Miên châm thuốc hút và lơ đãng nhìn đi nơi khác, tôi vụt chạy ào ào một quãng xa rồi phóng ra khỏi hàng rào trại. Vài tiếng súng nổ ở phía sau, nhưng tôi đã chạy tới đường lớn cách trại khoảng trăm mét. May mắn thay, từ xa có xe Jeep cắm cờ Hồng thập tự chạy tới. Tôi đứng giữa đường, giơ hai tay lên. Xe ngừng lại trước mặt tôi. Hai người Mỹ xuống xe hỏi :
- Are you Vietnamese ?

Tôi mau mắn trả lời :
- Yes ! I am Vietnamese. I came from Saigon. I looking for freedom. Please help me.
- OK ! We help you.

Tôi mừng rỡ như chết đi sống lại, nhảy lên xe Jeep. Nghe tôi khai bị đói, lạnh trong rừng suốt chín ngày đêm, Hồng thập tự chở tôi vào một bệnh viện dã chiến trong vùng Khmer Tự do, nằm dưỡng bệnh ba ngày. Tôi được cho uống thuốc, ăn cháo và các trái cây bổ dưỡng. Đươc sự che chở và chăm sóc của Hồng thập tự, tôi đã thật sự hồi sinh, nhìn thấy trước mắt một tương lai tươi sáng.

Tôi thầm cảm tạ Trời cao thiêng liêng và Ông Bà , Cha Mẹ, Anh Chị Em linh hiển đã phù hộ cho tôi được chuyển nguy thành an. Sau khi khỏe mạnh, tôi được Hồng thập tự chở vào trại tị nạn NW9. Bấy giờ là giữa tháng 1 / 1980. Tôi mừng rơi nước mắt. Cảm ơn Hồng thập tự Quốc tế. Cảm ơn những tấm lòng nhân ái của nhân viên Hồng thập tự và Cao ủy Liên hiệp quốc.

Tình Đầu Đời Tị Nạn

..** Trại NW9 là trại tị nạn dành cho người vượt biên đường bộ. Trại nằm trên lãnh thổ Campuchia nhưng ở sát bờ hào biên giới Thái. Một cây cầu nhỏ bắc ngang từ bờ hào biên giới qua đến cổng trại. Hàng ngày, nhân viên Hồng thập tự từ bên đất Thái chỉ bước vài bước trên cầu nhỏ này là vào trại để làm việc. Ngày đầu được vào trại, lòng rộn ràng vui sướng, tôi hớn hở nhìn những người tị nạn khác đang tập trung ở gần văn phòng trại xem bảng niêm yết tin tức hay thư từ. Đồng bào Việt Nam tôi đây. Tôi có cảm giác thân thiết với tấtcả mọi người, luôn miệng cười với người này, người nọ. Tôi được xếp cho một chổ ngủ trong một dãy lều dài thuộc khu dân sự. Vài hôm sau, được vài thanh niên cho biết, nếu là bộ đội Việt cộng tị nạn chính trị sẽ được cứu xét cho đi Mỹ nhanh hơn.

Tôi lên văn phòng khai mình đã từng là bộ đội, được chuyển ngay qua một dãy lều trong khu bộ đội. Tất cả bộ đội nơi đây đều từ các đơn vị Việt cộng ở gần biên giới đào ngũ chạy qua Thái.

Dân tị nạn trong trại sinh hoạt rất vui vẻ. Dù việc ăn uống có hơi thiếu thốn, nhất là nước, mỗi người chỉ được bốn lít mỗi ngày để uống và tắm rửa, nhưng ai ai trong trại cũng được yên ổn sống qua ngày. Vài ba tối thì có nhiều người tụ tập liên hoan đưa tiễn người được xuất trại. Chỉ với nước trà và bánh, kẹo đơn sơ, họ mời nhau và đàn ca, nhảy nhót với nhau thật vô tư. Họ an tâm từ nay không còn phải sống với cộng sản nữa. Qua những buổi liên hoan đó, tôi quen thân với một người bạn tên Khúc Duy Viễn, cũng là bộ đội tị nạn chính trị.

Tôi viết thư thăm anh chị Hải Vân và các cô bạn thân ở thương xá Rex như Phuợng, Đức, Linh… Một tháng sau, nhận được thư anh Vân và các bạn, tôi nhảy tưng tưng. Ở trại tị nạn, người ta rất khát khao thư từ người thân. Nhận được thư là người ta vui lắm. Vui nhất là những người có thân nhân ở các nước tự do gửi cho tiền. Nhờ đọc báo Văn nghệ tiền phong, tôi liên lạc được một hội thiện nguyện ở bang Kansas, xin hội làm hồ sơ bảo lãnh. Tháng rưởi sau, tôi nhận được giấy tờ bảo lãnh của bà hội trưởng Mai Liên. Nhờ có hồ sơ bảo lãnh này, sau bốn tháng ở trại NW9, tôi được chuyển đến trại Sikiu, cũng là trại tị nạn đường bộ nhưng ở sâu trong đất Thái.

Trại Sikiu được chia thành hai khu. Khu gia đình và phụ nữ ở chung. Khu khác dành cho thanh niên độc thân, có hai building giống như nhà tù, bị cách biệt với khu gia đình bằng một vòng rào kẻm gai cao lút đầu. Building 1 gồm nhiều thanh niên ở trại trên một năm vì không có thân nhân bảo lãnh, là building nhà giàu, có bàn đánh ping pong và ai cũng có máy hát nghe nhạc, tiền bạc tiêu xài rủng rỉnh. Đời sống họ sung túc trong hoàn cảnh tị nạn nhờ họ, ai cũng giả tên con gái đăng báo Văn nghệ tiền phong, mục tìm bạn bốn phương, dụ dỗ đàn ông độc thân ở Mỹ gửi tiền, quà cho họ. Tên cô “đực rựa” nào cũng đẹp : Hồng Ngọc, Thu Thảo v.v… Rồi họ gửi hình của thiếu nữ xinh đẹp nào đó mà họ có được, làm cánh đàn ông ở Mỹ chết mê, chết mệt. Thời đó, đàn ông độc thân bên Mỹ chịu cảnh khan hiếm đàn bà, khao khát tình cảm lắm, nên dốc túi gửi tiền và quà lia chia cho các cô bạn “đực rựa’ này, hy vọng sẽ bảo lãnh được một cô vợ đẹp như tiên. Building 2 là building nhà nghèo gồm những bộ đội tị nạn chính trị mới đến như tôi. Đa số là dân bộ đội có gốc rễ ở Sài Gòn hay miền Tây, trong hoàn cảnh tị nạn nghèo rớt mùng tơi vẫn còn tánh ăn chơi. Hàng đêm các chàng ta tụ tập thành từng nhóm ca hát, ôm nhau nhảy đầm, rồi kết bè, kết đảng quánh lộn, thường bị an ninh trại kéo ra ngoài building đánh cho một trận. Tôi cứ an phận sống qua ngày tháng. Ban ngày thì lặng lẽ đi vòng vòng trong khu độc thân, nhìn cảnh sinh hoạt mua bán nơi cổng trại, hoặc trò chuyện với Viễn. Mỗi tối, tôi thui thủi một mình trên cái chiếu trải trên sàn nhà ở một góc building. Đi tìm đời sống tự do, không phải là tự do kết bè đảng để đánh người hay bị người đánh !.

Hai tháng sau, tôi được phái đoàn Mỹ vào trại làm hồ sơ phỏng vấn, chụp hình. Thêm ba tháng rưởi nữa, tôi được chuyển đến trại Phanatnikhom. Được rời trại Sikiu, tôi mừng như người vừa ở tù ra. Trại Phanatnikhom là trung tâm tị nạn lớn nhất ở Thái Lan, gồm người vượt biên từ các trại đường bộ và đường biển đã có hồ sơ bảo lãnh của thân nhân hay hội đoàn. Họ được chuyển đến đây để chờ được phái đoàn các nước thứ ba phỏng vấn chính thức, quyết định cho đi định cư hay không. Ở trung tâm này có Thủ đô Bangkok, Thái Lan đủ các sắc dân tị nạn : Việt, Miên, Lào. Vì quá đông nên trại không tổ chức phát cơm canh nấu sẵn cho người tị nạn, mà mỗi tuần phát thực phẩm cho từng tổ độc thân hay từng gia đình để tự nấu ăn. Tổ độc thân tôi có năm thanh niên. Cả tổ lãnh thực phẩm về rồi chia nhau ai muốn nấu ăn sao thì tùy. Sinh hoạt ở trung tâm vui nhộn như trong một thị trấn. Có chợ bán đủ loại hàng hóa và nhiều hàng quán bán thức ăn, thức uống như cơm dĩa, hủ tíu, cà phê, bánh mì, nước sinh tố… Dân tị nạn có thân nhân gửi tiền thì tha hồ vui chơi, tiêu xài ở chợ và các hàng quán này. Phượng, Đức ở thương xá Rex giới thiệu tôi với người bạn của hai cô ở bang California tên Nguyễn ngọc Lưu. Tôi được Lưu gửi cho 50 dollars. Nhờ vậy, thỉnh thoảng tôi cũng vào quán phong lưu chút đỉnh sau gần một năm gian truân khổ ải trong hành trình viễn xứ. Giữa tháng 11 / 1980, tôi được phái đoàn INS Mỹ chính thức phỏng vấn và chấp thuận cho tôi đi Mỹ. Nhìn hai chữ OK của nhân viên INS phê vào hồ sơ, tôi mừng quá cỡ, cả người nhẹ hẫng như muốn bay lên trời.

Nỗi mừng được phái đoàn Mỹ chấp thuận chưa tiêu hóa xong thì qua hôm sau tôi lại có thêm một niềm vui khác không thể nào ngờ trước được. Tôi từ cửa phòng thư tín chen ra khỏi đám đông, vừa đi vài bước thì gặp một thiếu nữ đang đi tới. Cô mặc áo thun trắng ngắn tay bó sát thân mình và cái quần Jean xanh. Nhìn phục sức trẻ trung và khuôn mặt kiều diễm của cô, trông quen quá. Tôi ngẩn người nhìn cô một thoáng và bật reo lên :
- Trời ơi…Diệu !

Cô gái ngỡ ngàng nhìn tôi rồi cũng reo lên :
- Anh Quý ! Sau tiếng reo là Diệu nhào tới quàng hai cánh tay qua hai vai tôi, ôm chặc lấy tôi và nói trong xúc động :
- Anh Quý. Em không ngờ được gặp anh ở đây.

Tôi cũng ôm chặc cô, lòng bồi hồi, vui sướng. Trong hoàn cảnh tị nạn xa xứ này lại được gặp cố nhân.

Người con gái xinh đẹp ở Thị Nghè ngày nào có với tôi tình thân thiết, và một thời gian tôi đã nhớ nhung cô muốn phát điên vì ám ảnh nụ hôn đầu đời do cô chủ động ban cho. Buông nhau ra, tôi mời Diệu vào quán. Chúng tôi ngồi sát bên nhau, vừa ăn uống vừa chuyện trò vui vẻ. Tôi nói :
- Từ sau tháng 4 / 1975, không còn gặp Diệu, anh nhớ quá chừng.
- Sao anh không đến gặp em ?
- Ngay ngày 1 tháng 5 anh có đến tìm Diệu mà cả nhà Diệu đi vắng. Sau đó, phải lo toan đời sống mới nhiều khó khăn, anh không có dịp đến thăm em. Khoảng tháng 11 / 1975, anh nhớ em quá nên đến nhà em ở xóm chợ Thị Nghè thì em đã dọn nhà đi đâu rồi. Thấm thoát đã năm năm rưởi rồi hở Diệu.
- Đời sống mới trong chế độ Việt cộng khó khăn thiệt. Bố em bị đi tù “cải tạo”. Mẹ bán nhà để lấy tiền nuôi Bố, nên dọn đến căn nhà nhỏ khác. Em sống đời con gái nhà nghèo, hết vui chơi phóng túng như trước.

Tôi nhìn Diệu mỉm cười :
- Đời sống con gái nhà nghèo mà Diệu vẫn đẹp. Bây giờ Diệu đẹp hơn xưa nhiều lắm.

Diệu cũng mỉm cười, không phủ nhận sắc đẹp của mình :
- Có đẹp hơn mà tình thì thiếu vắng. Sau câu nói, Diệu nhìn tôi với ánh mắt long lanh. Ăn uống xong, Diệu nói :
- Thôi, mình đi anh. Về chổ em chơi nhé. Gặp mẹ em luôn. Mẹ em cũng hay nhắc đến anh.

Ra tới đường, Diệu nói :
- Anh nắm tay em đi. Như hồi ở Thị Nghè vậy.

Tôi nắm lấy bàn tay mềm dịu, mịn màng của Diệu, lòng lâng lâng vui sướng. Trời buổi chiều mùa Đông se se lạnh. Diệu đi nép vào tôi như người tình bé bỏng. Diệu hỏi :
- Anh Quý đã có vợ chưa ?
- Đã ai yêu anh đâu mà có vợ.
- Vậy anh đi Úc với em nhé.
- Hôm qua, anh mới được INS phỏng vấn cho đi Mỹ.
- Tiếc quá ! Em cũng thích đi Mỹ lắm. Nhưng em có người chị ruột ở Úc, nên mẹ muốn đi Úc. Vài ngày nữa mẹ và em sẽ được phái đoàn Úc phỏng vấn.

Về tới chổ Diệu ở, dì Sáu, mẹ Diệu, cũng vui mừng khi bất ngờ gặp lại tôi. Nói chuyện một hồi, dì Sáu nói :
“ Hai con cứ nói chuyện đi, mẹ qua thăm bà bạn mới đến trại”.

Khi dì Sáu đi rồi, Diệu kéo tấm màn che chổ ngủ của cô. Hai đứa tôi có khoảng không gian riêng tư để tâm tình. Tôi hỏi : -
- Còn bố đâu Diệu ?

Diệu buồn rầu trả lời :
- Bố em mất rồi. Bố chết rất thảm trên biển. Diệu lấy tay dụi đôi mắt vì xúc động rồi kể cho tôi nghe hành trình vượt biển của cô :
“Bố em đi tù cải tạo về vài tháng thì cùng mẹ và em vượt biên. Thuyền em có 43 người, gồm đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Đi được sáu ngày, tàu chết máy, lênh đênh trên biển. Rồi một tàu hải tặc Thái áp sát. Chúng 13 tên trang bị nhiều vũ khí nhảy sang tàu em. Chúng lục soát tất cả mọi người, cướp hết mọi thứ vàng, bạc, nữ trang. Sau đó, chúng lôi các cô trẻ đẹp ra để thỏa mãn thú tính. Em cũng …

” Diệu ngập ngừng không nói tiếp, rồi gục vào vai tôi. Tôi hiểu chuyện gì đã xảy ra cho Diệu. Tôi xúc động nắm chặc bàn tay Diệu, im lặng. Vài phút trôi qua, Diệu kể tiếp “ Bố thấy em bị làm nhục thì nhào tới chống cự, bị hai tên hải tặc túm đánh, lấy súng nện liên tục lên đầu bố rồi ném xác bố xuống biển. Sau khi thỏa mãn, chúng về lại tàu rồi cho tàu húc lủng thuyền em. Nước tràn vào và thuyền lật. Em và mẹ mỗi người may mắn bám được một mảnh gỗ trôi vào bờ, được người Thái đưa vào trại Songkhla. Vào trại rồi em mới được gặp lại mẹ. Nghe mẹ nói, số người trên thuyền bị chết hết 23 người “. Kể xong chuyện buồn, Diệu im lặng, mắt có ngấn lệ. Tôi không biết nói gì để an ủi Diệu, chỉ biết nắm chặc tay Diệu, im lặng cảm thông. Một lát sau, bổng Diệu ôm chặc lấy tôi, đôi mắt lá răm tuyệt đẹp nhìn sâu vào mắt tôi như hớp hồn tôi, rồi hôn tôi say đắm. Lần thứ hai tôi được Diệu chủ động hôn. Nụ hôn lần này kéo dài càng ngọt lịm bờ môi, truyền dẫn vào người tôi cảm giác đê mê, ngây ngất. Không tự chủ được trước hương sắc và sự nồng nàn của Diệu, tôi cũng ôm chặc cô, say sưa hôn lại. Diệu thỏ thẻ ngọt ngào bên tai tôi :
- Anh Quý. Em đã yêu anh từ hồi còn ở Thị Nghè.

Tôi cảm động :
- Sao em không nói cho anh biết ?
- Tại em thấy anh có vẻ không yêu em. Anh chỉ coi em như bạn. Anh có hỏi em, người em thật sự yêu là ai. Em không nói vì… chính là anh đó.

Lòng xao xuyến, tôi nói với giọng run run :
- Anh cũng yêu em…Chẳng qua hồi đó… anh có nhiều mặc cảm…
- Vậy bây giờ… anh yêu em đi… Diệu vừa nói với giọng nhiều cảm xúc vừa quàng hai cánh tay trắng nõn nà quanh cổ tôi, kéo tôi cùng nằm xuống. Đôi môi son đỏ mọng cong cớn của Diệu khe khẽ thốt : - Yêu em đi anh Quý…

Tôi rạo rực rơi vào lửa tình với Diệu…Đã 27 tuổi, lần đầu tiên tôi mới được biết mùi vị ái ân…Từ hôm đó, tôi luôn khăng khít bên Diệu. Một tuần sau, tôi có tên trong danh sách xuất trại đi đảo Galang, Indonesia. Ngày cuối ở bên nhau, Diệu tha thiết nói :
- Dù tình yêu đến muộn màng, nhưng muộn còn hơn không. Chúng mình đã có với nhau kỷ niệm đẹp tuyệt vời. Mai đây mỗi người một phương trời, chúng mình sẽ vẫn luôn nhớ đến nhau. Nha anh. Em không ràng buộc gì anh cả, miễn trong tim anh luôn có em
Tôi xúc động :
- Anh sẽ luôn nhớ đến em. Em là ngưòi đã cho anh có được tình yêu đầu đời nồng cháy.
Chúng tôi lại đắm đuối trong biển tình. Hôm sau, Diệu tiễn tôi lên đường.
..

Phút biệt ly giữa hai người yêu nhau buồn não nuột. Diêu rươm rướm nước mắt. Chúng tôi ôm chặc nhau thật lâu lần cuối. Tôi hôn lên hai má Diệu rồi lặng lẽ đi theo đoàn người chuyển qua Transit Center, đối diện với Trung tâm Phanatnikhom. Ngoái nhìn lại, thấy Diệu vẫn còn đứng nhìn theo với đôi mắt buồn vời vợi, tôi giơ tay vẫy, Diệu vẫy tay lại. Chào biệt Diệu. Chào biệt cuộc tình đầu đời tị nạn !…

Tự Do Ơi…Tự Do !

..** Sau bốn ngày ở Transit Center, tôi và nhiều người được xe Bus chở đến một trạm chuyển tiếp gần thủ đô Bangkok, nằm chờ ba ngày. Khi có chuyến bay, chúng tôi được phát mỗi người một túi thức ăn và lên xe Bus đến phi trường Bangkok. Cảnh đêm thủ đô Bangkok thật đẹp với muôn ánh đèn màu. Ngồi chờ ở phi trường hai tiếng thì đoàn người tị nạn lần lượt lên máy bay. Nửa tiếng sau, máy bay cất cánh..Lòng tôi phơi phới, vui như ngày lễ hội. Khoảng ba tiếng sau, máy bay đáp xuống phi trường Singapore. Hôm sau, chúng tôi được chuyển đến đảo Galang, Indonesia bằng thuyền lớn. Tại đảo, tôi gặp lại Viễn, đến trước tôi một tháng. Chúng tôi càng chơi thân với nhau. Rồi Viễn cũng lên đường đi Mỹ trước tôi. Nghe theo lời Viễn, tôi chuyển hồ sơ đi theo bảo lãnh của người anh bà con Viễn là anh Dương minh Hiệp ở bang South Dakota. Sau bốn tháng rưởi ở Galang 2 học văn hóa Mỹ và thêm chút tiếng Anh, tôi được rời đảo ngày 21 / 4 / 1982. Ở thêm ba ngày trong trạm chuyển tiếp Singapore, tôi chính thức được lên đường đi định cư tại Hoa Kỳ ngày 24 / 4 / 1982.

Hành trình viễn xứ của tôi đã tới đích.

Tôi đã thật sự được đặt bước chân lên miền đất Tự Do mà tôi hằng mong ước từ bao năm qua. Xin chào UNITED STATES Of AMERICA - Đất nước tự do, dân chủ, văn minh, nhân bản và giàu mạnh nhất thế giới. Một lần nữa, tôi thầm cảm tạ Trời cao thiêng liêng, Ông Bà, Cha Mẹ, Anh Chị Em linh hiển đã phù hộ cho tôi, trong hành trình nhiều gian truân, trắc trở, được may mắn chuyển nguy thành an. Tự Do ơi…Tự Do ! Tôi đã có được Người !

Xin cảm ơn Chính phủ Mỹ, Nhân dân Mỹ đã nhân ái dang rộng vòng tay đón nhận tôi và cưu mang tôi 28 năm qua.

Trưa nay, trời cuối thu se se lạnh, tôi đến viếng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam trong khuôn viên nghĩa trang Westminster, tọa lạc trên đại lộ Bolsa góc đường Hoover, quận Cam. Tôi cúi đầu thật lâu trước Tượng Đài để tưởng niệm tất cả vong linh Đồng bào Việt Nam đã bỏ mình trong Hành Trình Tìm Tự Do. Đã có khoảng 200 ngàn người Việt tử nạn trên biển cả trùng khơi hay nơi rừng sâu, nước độc bởi đói khát, bão tố, biển động, hay hải tặc hãm hiếp, giết chết. Trước Tượng Đài có tấm bảng đồng ghi : “ Tưởng niệm đến hàng trăm ngàn Thuyền Nhân, Bộ Nhân Việt Nam đã chết trên đường tìm Tự Do, Nhân Phẩm, Nhân Quyền. Gợi nhớ về cuộc hành trình đầy đau thương và khổ nạn của hàng triệu người Việt rời bỏ Quê Hương sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 vì không chấp nhận chế độ Cộng sản. Lưu truyền chứng tích đến các thế hệ mai sau..


HUYỀN THIÊN QUÝ

Hoang Nguyen gởi