Vai trò của chư Ni Việt Nam tại Hải Ngoại ngày nay
Thích Như Điển
Kể từ thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, chính Ngài đã cho người nữ xuất gia tại thành Tỳ Xá Ly và Giáo Đoàn Tỳ Kheo Ni đầu tiên do Thánh Ni Kiều Đàm Di lãnh đạo.Suốt mấy trăm năm như thế Giáo Đoàn Ni nầy tồn tại ở Ấn Độ cho đến khi Công chúa Shanghamita, con gái Vua A Dục cùng Hoàng TửMahinda mang Phật Giáo vào Tích Lan ở thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch, thì tại đây Tỳ Kheo Ni cũng đã được thành lập ngay từ những ngày đầu tiên ấy. Thế nhưng bây giờ ở thế kỷ thứ 21 nầy có ai đó đi tìm nguồn gốc hay sự hiện hữu của giáo đoàn Tỳ Kheo Ni tại Tích Lan thì hầu như không còn liên tục như xưa nữa. Chắc chắn rằng dấu chân truyền thừa ấy đã tiếp tục truyền từ Tích Lan qua Trung Hoa và từ Trung Hoa được truyền sang Việt Nam, Đại Hàn và Nhật Bản từ những thế kỷ đầu tiên Dương Lịch ấy.
Việt Nam chúng ta ảnh hưởng bởi tinh thần của Phật Giáo Đại Thừa rất mạnh ngay từ những ngày tháng đầu Phật Giáo mới có mặt tại Giao Châu, thời của Ngài Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác, Ma Ha Tăng Kỳ Vực và vai trò của chư ni cũng không kém phần quan trọng trong vấn đề truyền thừa theo tinh thần luật Thanh Văn Tứ Phần; nhưng kèm theo đó thực hành Bồ Tát hạnh; nên cả chư Tăng và chư Ni bên Đại Thừa Phật Giáo đều thọ lãnh thêm giới Bồ Tát xuất gia để dễ mang Phật Giáo vào nhân gian. Mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 11, dưới triềuĐại nhà Lý, Đại Việt chúng ta có Ni Sư Diệu Nhân, người vốn xuất thân từ hoàng tộc; nên tài đức vẹn toàn và kể từ đó; nghĩa là cách nay hơn 1.000 năm lịch sử, việc truyền thừa của Ni giới tại Việt Nam vẫn được liên tục cho đến ngày nay. Ở thời điểm cuối thế kỷ thứ 20 tại Việt Nam có Ni Trưởng Như Thanh, Ni Trưởng Diệu Không, Ni Trưởng Hải Triều Âm, Ni Trưởng Trí Hải v.v… là những bậc danh ni được trong cũng như ngoài nước nể phục qua những tác phẩm biên dịch, chú giải trước tác thơ văn có liên quan đến Phật Giáocũng như vấn đề tế độ cho chư Ni xuất gia học đạo.
Kể từ những năm 1950 về sau nầy Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam đã gửi chư Tăng và chư Ni ra ngoại quốc để tu học tại Ấn Độ, Nhật Bản, Tích Lan v.v… nên một số chư Ni cũng đã đóng góp vai trò giữ gìn mối đạo của Việt Nam chúng ta không phải là nhỏ qua việc tiếp Ni độ chúng để truyền thừa qua việc làm chùa, quy y thọ giới cho cư sĩ tại gia, truyền giới Bát Quan Trai, tuyền Sa Di Ni Giới, truyền giới Thức Xoa hay Tỳ Kheo Ni cho người Việt cũng như người ngoại quốc. Những vị Ni đầu tiên có mặt tại ngoại quốc phải kể đến Ni Trưởng Thích Nữ Như Chánh du học Nhật Bản, sau đó sang Hoa Kỳ và viên tịch tại đó. Ni Trưởng Mạn Đà La du học Nhật Bản và sang Pháp hoạt động một thời gian dài, Ni Trưởng Trí Hải du học tại Hoa Kỳ, sau về làm việc cho viện Đại Học Vạn Hạnh ở Sài Gòn.
Từnăm 1975 trở về sau nầy có rất nhiều chư Ni Việt Nam sang ngoại quốc qua con đường vượt biên, vượt biển như Sư Bà Đàm Lựu, trước năm 1975 du học tại Đức, sau 1975 sang Hoa Kỳ xây dựng nên chùa Đức Viên tại San Jose, California, Sư Bà Diệu Từ tỵ nạn qua Nhật Bản và sau đó di cư sang Hoa Kỳ, trú tại Sacramento và Nam California. Sư Bà Thích Nữ GiácHương, Sư Bà Thích Nữ Như Hòa, Sư Bà Thích Nữ Nguyên Thanh v.v… đó là những vị Ni tiêu biểu cho thời gian đầu ở Hoa Kỳ sau năm 1975. Tại Âu Châu sau năm 1975 có Sư Bà Thích Nữ Như Tuấn, trước đây tỵ nạn tại Thụy Sĩ; nay thì làm viện chủ chùa Phổ Hiền, Strassbourg Pháp Quốc. Sư Bà Thích Nữ Diệu Tâm, Viện Chủ Bảo Quang Ni Tự tại Hamburg, Đức Quốc. Sau nầy có thêm chư Ni ra đi tỵ nạn đã trởi thành Ni Trưởng, Ni Sư, Sư Cô v.v… ở Úc Châu, Âu Châu và Mỹ Châu không phải là ít và từ năm 1994 trở về sau nầy Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã gửi rất nhiều chư Tăng Ni sang Ấn Độ, Đài Loan, Đại Hàn, Hoa Kỳ, Úc, Nhật v.v… du học và thế hệ sau nầy đa phần tốt nghiệp cử nhân, cao học, Tiến Sĩ; nên đã giúp cho vai trò của chư Ni càng ngày càng có tiếng nói vững chải nhiều hơn qua việc đứng lớp tại các trường Đại Học, Trung Học ở trong cũng như ngoài nước để giảng cho sinh viên về Phật Giáo hay cũng có nhiều vị ni viết sách, dịch kinh, đồng thời cũng có nhiều vị Ni giảng pháp rất lôi cuốn quần chúng như Ni Trưởng Giới Châu, Ni Sư Tịnh Quang, Ni Sư Minh Liên, Ni Sư Giới Hương v.v… Cứ như vậy mà tiếp tục sự nghiệp hoằng hóa độ sanh thì vai trò của người nữ trong giới xuất gia Việt Nam của chúng ta sẽ được tăng tiến nhiều hơn.
Cách đây chừng 10 năm tại Đại Học Hamburg, Đức Quốc đã tổ chức mấy ngày thảo luận về vai trò của các vị Tỳ Kheo Ni theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng. Lúc ấy có Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng tham dự. Khách mời từ Việt Nam có Giáo Sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát thuyết trình bằng tiếng Anh về đề tài Ni Sư Diệu Nhân triều Lý. Hòa Thượng Thích Quảng Ba từ Úc, Sư Cô Thích Nữ Hạnh Trì từ Hoa Kỳ, Quý Thượng Tọa và chư Ni từ Đài Loan cũng như cá nhân chúng tôi cũng được mời tham dự. Sau mấy ngày thảo luận tất cả các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa và ngay cả Ngài Bohdhi theo truyền thống Nam Tông cũng đồng ý cho chư Ni ngoại quốc theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng nên được chính thức thọ giới Tỳ Kheo Ni theo tinh thần Tứ Phần Luật. Nhưng cuối cùng thì Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng: Vấn đề nầy không phải chỉ một mình Ngài quyết định được, mặc dầu Ngài rất hoan hỷ tán đồng; nhưng Tây Tạng không phải chì có một truyền thống mà cả 4 truyền thống Phật Giáo của Tây Tạng đều đồng ý thì việc ấy mới thành tựu và Ngài kết luận rằng: Phải chi còn Đức Phật ở đây thì đỡ cho Ngài quá. Đây là câu chuyện có thật và từ đó đến nay Phật Giáo Tây Tạng vẫn chưa chính thức có những đàn giới để truyền cho giới tử ngoại quốc giới Tỳ Kheo Ni và cách trả lời đơn giản nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma là Tây Tạng không có việc truyền thừa của Ni Giới từ xưa đến nay; nên tại Tây Tạng ngày nay không chính thức có Tỳ Kheo Ni. Bởi lý do nầy nên chư Ni người Tây phương khi xuất gia với truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng họ chỉ được thọ 8 giới hay 10 giới Sa Di Ni là cùng. Ai muốn tiến xa hơn nữa phải qua các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa khác như Trung Hoa, Việt Nam hay Đại Hàn để cầu thọ giới Thức Xoa hay Tỳ Kheo Ni.
Như vậy tổng quan chúng ta có thể nhận định rằng: Phật Giáo Đại Thừa là Phật Giáo dấn thân rất khế hợp với căn cơ của người Tây Phương trong hiện tại; nhất là người nữ Việt Nam cũng phải hãnh diện rằng: mình được làm nữ tu sĩ Phật Giáo Việt Nam trở thành những vị Tỳ Kheo Ni để lãnh đạo quần chúng, gánh vác việc của Tăng Già giống như chư Tăng không khác. Có như vậy Phật Giáo Việt Nam mới được đứng vững đến ngày hôm nay; trong khi đó các nước Phật Giáo theo Kim Cang Thừa như Tây Tạng, Bhutan, Mông Cổ v.v... mãi cho đến ngày nay vai trò của người nữ tu xem như còn vắng bóng. Đó là chưa kể đến vai trò của người nữ trong các xứ Phật Giáo Nam Tông như: Thái Lan. Miến Điện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt v.v... vẫn còn rất là khiêm nhường, vì cộng đồng của chư Tăng chưa chấp nhận.
Như vậy chư Ni Việt Nam dầu ở trong hay ngoài nước hãy nên lấy đây làm niềm tin để tiếp tục dấn thân trong tinh thần của Phật Giáo Đại Thừa thì tiếng nói cũng như vai trò của người nữ càng ngày càng được quan tâm nhiều hơn nữa. Có như vậy trong thất chúng Đệ Tử của Phật mới được trọn vẹn đầy đủ. Đó là: Cư Sĩ Nam, Cư Sĩ Nữ, Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa, Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni.
Viết xong bài nầy tại chùa Pháp Tạng, thủ đô Wien, Áo Quốc vào ngày 23 tháng 11 năm 2019.
_______________________________
Lời Giới Thiệu
Cách đây hơn một năm, khi tôi có dịp sang tham dự Đại Lễ Phật Đản lần thứ 2561(2018)tại chùa Vạn Hạnh Hòa Lan, Hòa Thượng Ananda có ký tặng cho tôi một quyển sách bằng tiếng Anh nhan đề là:Monk&Monkeys Travails of a Flying Dutsch monk over 40 years in Sri Lanka .Thật tình thì tôi xem hình trước, vì những hình minh họa và các hình Ngài chụp kỷ niệm ở các nơi tại Tích Lan rất đẹp và năm nay vào cuối tháng 6 năm 2019 vừa qua, Ngài có qua chùa Viên Giác tại Hannover tham dự lễ khánh thọ 70 tuổi của tôi, Ngài có hỏi rằng: Thầy đã đọc sách của tôi chưa? Tôi trả lời Thầy bằng tiếng Anh và cả tiếng Đức rằng: Tôi sẽ cố gắng.
Thế mà mãi cho đến hôm nay, Đạo Hữu Nguyên Trí-Hồ Thanh Trước đã dịch hoàn toàn sang tiếng Việt với tiêu đề là: “Hơn 40 năm khổ công của một Tăng Sĩ Hòa Lan bay, tại Tích Lan” thì tôi mới có cơ hội đọc hết bản tiếng Việt từ đầu đến cuối, kèm thêm bài viết của Đạo Hữu Nguyên Trí Hồ Thanh Trước về xứ Hòa Lan cũng như Lời Ngõ nữa và sau khi gấp bản thảo lại, tôi nghĩ rằng cái tựa đề mà Hòa Thượng Ananda đặt cho sách nầy nó không liên quan gì với nội dung cả, mặc dầu Thầy ấy đã lấy hình ảnh nơi ẩn tu của Ngài tại Tích Lan có nhiều con khỉ hơn con người để làm cho độc giả tò mò chăng? Nhưng như chúng ta thấy cái tựa đề quá dài, mặc dầu dịch giả đã dịch đúng chữ và đúng nghĩa. Theo như Nguyên Đạo Văn Công Tuấn có đề nghị với tôi là nên đổi thành đề tài khác ngắn gọn hơn. Do vậy tôi xin đề nghị với Tác Giả và dịch giả là nên chọn tựa đề là: “Hành Trình của một Tăng Sĩ Hòa Lan đi tìm đạo tại Á Châu” chắc cũng không phải là kém phần hấp dẫn cho người đọc.
Tôi đã quen biết với Hòa Thượng Ananda từ những năm khi tôi qua chùa Vạn Hạnh tại Delhort và cả cho đến nay ở Almere. Lúc nào Ngài cũng tươi cười và nói đủ thứ ngôn ngữ. Lúc thì tiếng Hoa, tiếng Nhật; lúc thì tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức v.v… nghe cũng thật là hoan hỷ. Ngoài ra tôi cũng thường hay gặp Ngài ở các Đại Hội Phật Giáo Thế Giới do World Buddhist Shanga Counsil tổ chức tại Đài Loan hay Mã Lai v.v… Có nhiều lần Ngài đã đến Viên Giác và Viên Đức để thăm viếng và dự lễ cùng chúng tôi. Ngài tuổi đời hơn tôi một tuổi; nhưng Ngài xuất gia sau(1979 mới chính thức); tuy vậy Hòa Thượng vẫn là bậc Thầy có tuổi hạ cao nhất nhì của Phật Giáo Nam Tông tại Âu Châu nầy.
Dịch Giả Nguyên Trí Hồ Thanh Trước đã cố gắng hết mình để chuyển tải những danh từ Phật Pháp sang tiếng Việt, kể cả tiếng Pali hay tiếng địa phương ngoài tiếng Anh để cho độc giả Việt Nam dễ lãnh hội. Đây là một việc làm qúa tuyệt vời và tôi xin chân thành viết lời giới thiệu nầy đến với các độc giả người Việt Nam trên trang mạng Amazon về việc phát hành sách nầy. Tôi nghĩ rằng Quý độc giả sẽ thu thập được nhiều điều thú vị và học hỏi được nhiều điều cần thiết trên đường tìm cầu giác ngộ của những hành giả Đông Phương hướng về những hành giả Tây Phương đang thể hiện đức tin của mình vào ba ngôi Tam Bảo.
Viết xong vào ngày 19 tháng 10 năm 2019 tại thư phòng chùa Khánh Anh Évry, Pháp Quốc
Thích Như Điển, Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác Hannver, Đức Quốc
___________________________
ĐIÊU KIỆN CỦA NGƯỜI XUẤT GIA
1 - Giấy tờ nhân thân đầy đủ như chứng minh nhân dân.
2 - Giấy xác nhận độc thân của chính quyền địa phương.
3 - Giấy sơ yếu lý lịch của chính quyền địa phương.
4 - Giấy khám sức khỏe.
5 - Đơn xin xuất gia.
6 - Dưới 18 tuổi phải có sự đồng ý của cha mẹ.
7 - Người xuất gia phải đầy đủ lục căn như: Không đui mù, không câm ngọng, không điếc, không tàn tật, và tinh thần hoàn toàn ổn định.
8 - Người xuất gia phải có bằng cấp lớp 12 trở lên và tuổi đủ 20 mới được thọ giới. Trừ khi đi xuất gia dưới 18 tuổi hoặc quá 40 tuổi.
9 – Không thiếu nợ hay vi phạm luật pháp quốc gia.
10 – Không có ràng buộc gia đình và tổ chức xã hội: Lo việc gia đình cha mẹ, vợ con, anh chị em; Bận rộn công việc làm hay thành viên của các tổ chức xã hội.
11 – Không nghiện hút thuốc, uống rượu, ma túy, đánh đề, mua vé số, cá độ đá banh, đánh bài .v.v.
Nếu vi phạm những điều trên, thì tạm không xuất gia được.
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát ma ha tát!
Chùa Viên Giác gởi
|
|