VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT
IV. TRIỀU BÁI NGŨ ĐÀI SƠN
Năm Quang Tự thứ tám, tức năm 1882, khi ấy Hư Vân Đại Lão Hòa Thượng bốn mươi ba tuổi, phát tâm triều bái Ngũ Đài Sơn, là nơi Thánh địa trụ tích của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Đầu tháng bảy, từ núi Phổ Đà phía đông bờ biển Nam Hải, Ngài khởi hương, đi ba bước lạy một lạy, triều bái trực chỉ thẳng đến núi Ngũ Đài thuộc miền Bắc.
Ngài vượt biển, đi qua Hồ Châu, Tô Châu, Thường Châu. Ngày đi đêm nghỉ, gió mưa sáng tối vẫn đi, cứ như thế mà lạy. Dù vui khổ đói khát, không quên chánh niệm. Đến cuối năm thì nghỉ tại chùa Sư Tử.
Sau đó, Ngài tiếp tục lạy đến bến sông Hoàng Hà. Khi trời vừa tối, Ngài tạm dừng chân tại mái tranh nhỏ không người ở tại ven đường. Đêm ấy, tuyết rơi dày đặc. Trong chòi tranh không vách che, Ngài chuyên tâm kiết già thiền tọa. Sáng hôm sau, mở mắt ra thấy bốn bề đều trắng xóa, tuyết dầy cả thước, không thấy đường đi, Ngài đành ở lại. Trải qua cả tuần, chịu gió tuyết thấu xương, bụng đói da lạnh, Ngài lâm trọng bệnh không thể di chuyển.
Đến ngày thứ bảy, tuyết ngừng rơi, trong bóng mặt trời, chợt một vị Tiên sinh bước vào lều ân cần hỏi thăm. Thấy Ngài Hư Vân không trả lời được, vị Tiên sinh gạt tuyết ra, bới rơm nhóm lửa, cẩn thận nấu một nồi cháo bằng gạo vàng. Vừa ăn xong, mình toát mồ hội, Ngài dần bình phục. Tiên sinh hỏi: Ngài từ đâu đến đây?
- Thưa, tôi từ núi Phổ Đà tại Nam Hải, triều bái đến Ngũ Đài Sơn.
- Tôi tên Văn Cát, đến từ núi Ngũ Đài, nay trở về Trường An.
- Từ núi Ngũ Đài đến, vậy Tiên sinh có biết hết chư Tăng ở đó không?
- Trên Ngũ Đài Sơn, ai ai cũng biết tôi cả!
Ngài Hư Vân hỏi tiếp:
-Vậy xin được hỏi, từ đây đến núi lộ trình bao xa?
- Hơn hai ngàn dặm.
Hôm sau, khi mặt trời vừa lên, Tiên sinh Văn Cát lại nấu cháo gạo vàng với tuyết. Thấy tuyết đang tan thành nước trong nồi, Tiên sinh bỗng chỉ tay vào tuyết và hỏi:
- Ở Nam Hải có vật này không?
- Thưa, không.
- Vậy Ngài uống bằng gì?
- Thưa, tôi uống bằng nước.
Khi tuyết trong nồi đã tan thành nước, Tiên sinh lại chỉ tay vào nước, hỏi:
- Vậy chứ đây là gì?
Ngài Hư Vân không trả lời được. Tiên sinh liền hỏi qua chuyện khác.
- Ngài đi lễ lạy danh sơn để mong cầu điều gì?
- Thưa, khi vừa sinh ra thì đã không còn thấy mẹ. Thế nên, nay tôi muốn lễ lạy để báo ơn sinh thành của mẹ hiền.
- Vai mang hành lý, đường xa trời lạnh, bao giờ Ngài mới đến được núi Ngũ Đài. Khuyên Ngài chớ bái lạy làm chi.
- Thưa, thệ nguyện đã định trước, nên cũng không kể chi năm tháng ngắn dài.
-Thệ nguyện như Ngài khó mà lập được. Nay thời tiết đã tốt hơn, nhưng tuyết vẫn chưa tan, không thể tìm đường được. Vậy nên, Ngài hãy theo dấu chân tôi mà đi.
Sau đó, hai Ngài chia tay. Những đoạn đường tiếp theo y hệt Tiên sinh Văn Cát đã mô tả. Ngài Hư Vân băng qua nhiều khúc sông, thành trì, đồng quê và tiếp tục lễ lạy. Cuối năm 1883, Ngài nghỉ tại chùa Hồng Phước.
Một đêm giữa tháng giêng, tại một ngôi miếu hoang tàn không mái nóc, Ngài Hư Vân lại ốm nguy kịch, nằm mê man trên mạnh chiếu mỏng. Nghĩ rằng cái chết sắp đến, nhưng trong thâm tâm Ngài không hề hối hận.
Đến khuya, Ngài Hư Vân khẽ cựa mình, phát
hiện trên trán đã có mảnh khăn ấm từ bao giờ, chợp mắt một lát thì chợt thấy có bóng người di chuyển lại gần. Ngài nhìn kỹ lại, hóa ra lại là ân nhân mới gặp lần trước. Thâm tâm mừng rỡ, Ngài liền gọi: “Tiên sinh Văn Cát.”
- Đại Sư Phụ, sao Ngài vẫn còn ở đây?
Ngài Hư Vân kể lại những việc đã xảy ra trong lúc đi. Tiên sinh Văn Cát nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh, vừa an ủi vừa chăm sóc. Đêm ấy, Ngài Hư Vân gặp được Tiên sinh, thân tâm rất thanh tịnh và an lạc. Sáng hôm sau, Tiên sinh đem y phục của Ngài ra giặt giũ, dọn dẹp sạch khu nằm nghỉ, lại nấu thêm cháo và thuốc thang cho Ngài. Vài ngày sau, Ngài Hư Vân khỏi hẳn, nhìn Tiên sinh Văn Cát mà dâng tràn cảm tạ:
- đều nhờ Tiên sinh Hai lần nguy hiểm tính mạng cứu giúp, xin vô cùng cảm tạ.
- Chỉ là việc nhỏ thôi.
- Giờ tôi trở lại núi Ngũ Đài. Tôi không thể theo kịp Tiên sinh được vì vẫn còn phải lễ bái.
Ngài vừa đi vừa lễ lạy lâu như vậy thì đến năm nào mới tới? Tôi nghĩ không nhất định phải lễ lạy lên Ngũ Đài Sơn.
- Tiên sinh có ý tốt, tôi rất cảm ơn. Nhưng vì trời cao lồng lộng, ân cha nghĩa mẹ bao la. Nay tôi phát nguyện triều bái, cầu Bồ Tát gia hộ, nguyện cho mẹ sớm được sanh về nơi có chánh Pháp, vậy thì chẳng quản chi trăm ngàn gian lao trước mắt. Hơn nữa, đã thệ nguyện với Bồ Tát rồi thì chết cũng không dám thối nguyện.
- Tâm thành hiếu thảo kiên cố của Ngài thật rất khó lập. Nay tôi trở về núi, cũng không gấp, tôi sẽ phụ mang hành lý trên đường để Ngài dễ dàng bái lạy, bớt đi vất vả, nhất tâm hành lễ.
- Nếu thế, lễ bái đến Ngũ Đài, nguyện đem công đức này phân nửa hồi hướng về cho cha mẹ sớm chứng đạo Bồ Đề, phân nửa xin hồi hướng đến Tiên sinh để báo đền ơn cứu mạng.
- Ngài thật là người con hiếu thảo, tôi chỉ thuận tiện mà giúp. Không dám nhận lời cảm tạ.
Từ đó, Ngài Hư Vân chuyên tâm lễ lạy phía trước, Tiên sinh Văn Cát mang túi hành lý đi sau, mọi việc ăn uống nghỉ ngơi cũng nhờ Tiên sinh cẩn thận sắp xếp. Có Tiên sinh đi cùng, Ngài Hư Vân càng đi sức khỏe càng tăng, một chút cảm giác mệt nhọc cũng không có. Khi thấy đường tới Ngũ Đài Sơn không còn xa lắm thì Tiên sinh Văn Cát xin phép về trước.
Sau ba tháng, Ngài Hư Vân lễ đến chùa Hiển Thông. Khi tới đây, Ngài lập tức tới các chùa am tự viện kế cận dâng hương lễ bái. Tiếp đó vì thương nhớ và cũng để cảm tạ ân nghĩa của Tiên sinh Văn Cát, Ngài Hư Vân đi khắp nơi thăm hỏi tung tích của Tiên sinh, nhưng không ai biết cả. May mắn thay, khi Ngài thuật lại sự tình cho một lão Hòa Thượng, vị này nghe xong liền chắp tay hướng về đỉnh Ngũ Đài mà bạch: “Đó chính là hóa thân của Bồ Tát Văn Thù”.
Ngài Hư Vân lập tức quỳ gối, lòng tôn kính trào dâng thành kính đảnh lễ Ngũ Đài Sơn cảm tạ Bồ Tát.
__________________
Hoang Nguyen gởi
