Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 
Vàng ít thau nhiều

Hồi xưa nền báo chí ở Miền Nam rất sung, rất phát triển. Phát triển là do người dân, là do bà con mình rất thích đọc nhựt trình. Có cung ắt có cầu. Những người cung cấp cho cái nhu cầu đọc nhựt trình đó là những người bán chữ.
 
Báo chí tạo ra một cái nghề sống được, dù không giàu có gì, đủ nuôi được vợ con đó cũng là may. Nghề đó gọi chung là nghề văn. Vậy là những người có khiếu về văn chương khoái chứ nghĩa gia nhập làng báo.
 
Đa phẩn các nhà văn nầy xuất thân từ những gia đình không giàu ở quê nhưng tương đối đủ ăn. Thi vào bậc trung học, lớp đệ nhứt niên ráng kiếm được cái học bổng đểu chánh phủ nuôi. Thường là họ đi học trễ một vài năm. Mấy ông nầy học nội trú tới Đệ Tứ Niên. Sau 4 năm thi đậu bằng Thành Chung thì mấy ông cũng đã 18, 19 tuổi rồi.
 
Lúc nầy, Đệ Nhị Thế Chiến vừa chấm dứt. Phong trào các nước thuộc địa đòi độc lập dâng cao. Đế quốc Anh chọn cách trả lại độc lập các nước thuộc địa. Nó chọn những kẻ để trao quyền dễ gây áp lực hầu bảo vệ quyền lợi của mẫu quốc. Còn thực dân Pháp ngu hơn, ngoan cố hơn, cứ giữ rịt thuộc địa trong vòng cai trị của mình. Thái độ đó tất đưa đến chiến tranh.
 
Những thanh niên Việt Nam yêu nước thương nòi đó lên đường đi kháng chiến dưới chiêu bài Mặt Trận Việt Minh. Sau 9 năm, cuộc chiến tranh Việt Pháp chấm dứt. Đất nước chia đôi. Những thanh niên tham gia kháng chiến 9 năm có hai lựa chọn. Một tập kết ra Bắc. Hai về thành. Ông Sơn Nam chọn về thành.
 
Như những người sanh quán ở Miền Tây cùng thời là Lê Xuyên, Ngọc Linh, Kiên Giang… Sơn Nam đi từng bước. Một làm thơ. Kế đó viết truyện ngắn, viết tiểu thuyết. Có người kiên trì đeo đuổi nghề viết tiểu thuyết. Viết mỗi ngày hai từng đoạn cúa hai ba truyện cho vài tờ báo gọi là viết “phơi dơ tông” (Feuilleton) như Lê Xuyên, Ngọc Linh, Dương Hà… Có người đi học bài bản cổ nhạc để soạn tuồng cải lương như Kiên Giang Hà Huy Hà, Nguyễn Phương,… Cuối cùng nhờ học College de Cantho nên tiếng Pháp rất cứng, Thư viện quốc gia là nơi ông Sơn Nam thường vô lục lọi.
 
Lục cái gì? Vì Sơn Nam muốn sống được bằng chữ nghĩa thì phải nguồn tài liệu dồi dào để viết dài dài kiếm cơm. Nên con đường nhà văn Sơn Nam trở thành nhà biên khảo là chuyện tất nhiên.
 
Sơn Nam là một người nổi tiếng nên có nhiều người quen. Có nhiều giai thoại về ông xuất hiện. Đồ thiệt thì ít mà đồ giả thì nhiều. Vàng thau lẫn lộn!
 
Cái giai thoại nầy tui tin là thiệt nè: “Nguyễn Quang Sáng kể khi ông chưa viết văn thì Sơn Nam đã là nhà văn nổi tiếng. Quê ông Sáng có nhiều câu chuyện rất ly kỳ, ông muốn kể cho ông Sơn Nam nghe để viết. Nhưng ông Sơn Nam từ chối: “Vùng đó tao không biết. Tao thấy rặng cây từ xa thôi. Mày cũng có chữ nghĩa, viết đi!”
 
Quan niệm mần văn của ông Sơn Nam theo tui nghĩ là: ngũ quan cộng với cái đầu. Ngũ quan là lưỡi để ăn mắm kho. Mắt để thấy. Tai để nghe. Mũi để ngửi mùi bồ kết gội đầu? Và tay xúc giác tê tê giựt giựt như lần đầu nắm tay em Chín bờ đò trên bến nước. Rồi quan trọng nhứt là cái đầu để phân biệt đúng sai. Cái đầu để biết chọn lựa vàng trong dám vàng thau lẫn lộn.
 
Ông Sơn Nam kể: “Hồi nhỏ, tôi nhớ quê tôi có rất nhiều chim thú, đặc biệt là cọp, khỉ, heo rừng, nai, thỏ. Hơn 5 cây số bờ rạch toàn đất úng, um tùm rừng tràm, cỏ lác, cỏ năn. Chẳng một ai thèm để mắt đến đất, chớ nói chi tới tranh chấp. Dân quê lại thường đồn đãi chuyện ma quỷ. Những lúc rảnh rang là họ tụm năm tụm ba rượu trà, đờn ca, thổi sáo và kể đủ chuyện, sau gom lại viết thành một truyện ngắn, cốt cho hấp dẫn. Và cứ thế, tôi liên tục khai thác nền văn minh miệt vườn trong các trang viết của mình.”
 
Tui tin là vì khi đọc những bài về Sử về Địa, biên khảo về Văn minh Miệt vườn, ông tra cứu tài liệu đa phần bằng tiếng Pháp rồi dùng đầu óc để loại ra rác rưởi, giữ lại cái khách quan, cái tinh ròng. Ông Sơn Nam làm ăn đàng hoàng chớ không viết ẩu. Ông tin được. Nhưng có mấy chuyện nầy ông nhà báo quen với ông Sơn Nam kể mà tui hổng dám tin.
 
Ông nhà báo viết là: “Nhưng rồi khi chuyển sang viết văn xuôi, ông tự phát hiện mình làm thơ dở hơn viết truyện nên dứt khoát ‘ly dị’ nàng thơ. Và lập tức năm 1951-1952, ông đã đoạt giải nhất với hai truyện ngắn Bên rừng cù lao Dung và Tây đầu đỏ trong cuộc thi do Ủy ban Kháng chiến – hành chính Nam Bộ tổ chức.”
 
Tui không tin là ông Sơn Nam làm thơ dở hơn viết văn nên ông nghỉ làm thơ. Mà vì làm thơ là đói là húp nước mắm theo chữ của ông! Hai là cái chuyện, cuối thời chống Pháp, Sơn Nam là nhà văn duy nhất gốc Nam Bộ được Trung Ương mời ra Bắc để sống và viết, nhằm bảo vệ một tài năng văn chương trong hoàn cảnh ác liệt của chiến tranh.
 
Cuối thời chống Pháp là năm 1954 hoà bình lập lại, hết chiến tranh thì trung ương nào mà mời ông Sơn Nam ra Bắc vì sợ tên bay đạn lạc. Hiệp định Geneve ký xong, ông Sơn Nam không đi tập kết vì vợ con đùm đề; ông về thành viết văn để nuôi vợ nuôi con. Viết vậy nghe còn có lý!
 
Những nhà văn “Bake 75” từ Hà Nội vào chê bai, dè bỉu nền văn học Miền Nam vì chúng chỉ có ngũ quan nhưng thiếu một cái đầu. Miền Nam có những nhà văn hay lắm như: Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Lê Xuyên, Ngọc Linh, Phi Vân… Hồ Biểu Chánh là nhà văn rất am hiểu về đời sống nông dân. Hồ Biểu Chánh từng giữ chức “chủ quận” thời Pháp thuộc ở Càng Long, nay thuộc tỉnh Trà Vinh. Ổng có máu tài tử, có tài quan sát tinh tế. Ông ưa giao du với hương chức, hội tề, lặn lội tận thôn ấp làng mạc, viết rất dài hơi. Còn Phi Vân là một ký giả tài năng. Tập phóng sự Đồng quê của ông xuất bản từ năm 1940 đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
 
Nhưng với 60 năm cầm bút, Sơn Nam đã để lại một gia tài đáng kể và đáng nể. Gia tài đó cho tất cả đám hậu sinh như chúng ta là vàng thiệt chớ không phải thau như: Hương rừng Cà Mau, Chim quyên xuống đất, Văn minh miệt vườn, Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Phong trào Duy Tân Bắc Trung Nam, Gia Định xưa, Bến Nghé xưa, Hai cõi U Minh, Vạch một chân trời…
 
Hãy tưởng tượng nếu Miền Nam chúng ta không còn nhà văn nào làm ăn đàng hoàng viết chân thật, đọc bài nào cũng là của bọn bố láo viết ra để bán rẻ cái lương tâm của người cầm bút, thì chao ôi, đời đáng chán biết bao!
 
Đoàn Xuân Thu
Melbourne

_________________


Đỗ Hứng gởi