Giới thiệu
nh điển hình
Vu Lan 2007003
Cảnh đẹp66
Cảnh đẹp67
Cảnh đẹp68
Cảnh đẹp69
Cảnh đẹp70
Cảnh đẹp71
Cảnh đẹp72
Cảnh đẹp73
Cảnh đẹp74
Cảnh đẹp75
Cảnh đẹp76
Cảnh đẹp77
Cảnh đẹp78
Cảnh đẹp79
Cảnh đẹp80
Cảnh đẹp81
Cảnh đẹp82
Cảnh đẹp83
Cảnh đẹp84
Cảnh đẹp85
Cảnh đẹp86
Cảnh đẹp89
Cảnh đẹp90
Cảnh đẹp91
Cảnh đẹp92
Cảnh đẹp93
Cảnh đẹp94
Cảnh đẹp96
Cảnh đẹp97
Cảnh đẹp98
Cảnh đẹp99
Cảnh đẹp99
Cảnh đẹp100
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
TÌM KIẾM
Chùa Kim Quang giới thiệu
Hoa Thuong Hu Van
Hoa Thuong Hu Van
Hoa Thuong Hu Van Hoa Thuong Hu Van
Hoa Thuong Hu Van
Hoa Thuong Hu Van


Biên Niên Tự Thuật của Thiền Sư Hư Vân

 

Hoa Thuong Hu Van

 

Tên tục của tôi là Trai. Dòng họ xuất thân từ Lan Lăng là hậu duệ của vua Lương Võ Đế. Gia tộc cư ngụ tại tỉnh Hồ Nam, huyện Tương Lương. Cha tên Ngọc Đường, mẹ tên Nhan Thị. Năm đầu đời nhà Thanh, cha làm quan tại tỉnh Phú Kiến. Năm mậu tuất và kỷ hợi làm quan tại châu Vĩnh Xuân.

Cha mẹ đã ngoài bốn mươi mà chưa có mụn con. Mẹ ra ngoài thành nơi chùa Quán Âm mà cầu tự. Bà thấy nóc chùa bị tàn phá hư hoại, lại thấy cầu Đông Quan nơi thành không ai sửa chữa nên phát nguyện trùng hưng kiến lập lại. Đêm nọ, cả cha lẫn mẹ đều nằm mơ thấy một vị mặc áo xanh, tóc dài, trên đỉnh đầu có tượng Bồ Tát Quán Thế Ấm, cưỡi hổ mà đến, nhảy lên trên giường. Mẹ kinh sợ, giật mình thức dậy, liền thọ thai. Cuối năm đó cha đi nhậm chức tại phủ Nguyên Châu.

Đời nhà Thanh, niên hiệu Đạo Quang năm thứ 20, 1 tuổi. (1840/41)

Tháng bảy ngày hai mươi, giờ dần, tôi ra đời tại phủ Tuyền Châu. Lúc ấy thân được bao bọc bởi một bọc thịt. Mẹ thấy vậy, kinh hãi vô cùng, nghĩ từ đây về sau chắc sẽ không còn hy vọng sanh con được nữa, nên buồn uất khí mà chết. Hôm sau, có ông lão bán thuốc đến cắt bọc thịt, bồng tôi ra. Kể từ đó được bà kế mẫu, Vương Thị, chăm sóc nuôi nấng.

(Đại sự trong năm: Chiến tranh nha phiến bùng nổ. Đề Đốc Tùng Đáo Từ cấm nha phiến. Đốt cháy kho nha phiến của người Anh. Nước Anh đem quân vào Quảng Đông)

Đời nhà Thanh, niên hiệu Đạo Quang năm thứ hai 22, 3 tuổi. (1842/43)

(Đại sự trong năm: Hòa ước Giang Kinh, mở năm cửa khẩu để thông thương cùng nước ngoài. Cắt Hồng Kông cho nước Anh.)

Đời nhà Thanh, niên hiệu Đạo Quang năm thứ 30, 11 tuổi. (1850/51)

Cha trở về Tuyền Châu. Được chú nhận làm con nuôi, nên bà nội, Châu Thị, định cưới hai cô vợ cho tôi, tức Điền Thị, và Đàm Thị. Cả hai đều là người tỉnh Hồ Nam, dòng dõi quan liêu tại Phúc Kiến, đời đời đã từng làm bạn thông giao với dòng họ tôi.

Đông năm ấy bà nội tôi qua đời. Cha thọ tang.

(Đại sự trong năm: Hồng Tú Toàn khởi nghĩa tại Kim Điền)

Hàm Phong nguyên niên, 12 tuổi. (1851/52)

Tháng hai, tôi cùng cha đi Đài Loan. Lên thuyền nhỏ ra biển, từ cửa Hạ Môn xuất phát. Lúc đang lênh đênh trên biển cả, bỗng đâu hiện ra một quái vật, lớn như núi, cao hơn mặt biển cả vài chục thước. Tất cả người trên thuyền thảy đều niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Ấm. Thuyền chạy khoảng nửa giờ sau thì thấy đuôi cá khổng lồ, dài không biết cả mấy trăm thước.

(Đại sự trong năm: Hồng Tú Toàn vây hãm Vĩnh An, xưng Thái Bình Thiên Quốc Thiên Vương)

Hàm Phong năm thứ 2, 13 tuổi. (1852/53)

Tôi theo cha đưa linh cữu bà nội trở về huyện Tương Lương an táng. Thỉnh chư tăng đến nhà làm Phật sự. Được thấy pháp khí Tam Bảo, tâm sanh vui mừng. Tạng sách trong nhà có kinh Phật. Lúc đầu xem truyện Hương Sơn, sự tích thành đạo của Bồ Tát Quán Thế Ấm, liền thâm nhiễm vào tâm. Tháng tám, theo chú đi Bồ Đường, hành hương ở Nam Ngạc. Đi lễ khắp các chùa, dường như có duyên xưa nên không muốn trở về nhà. Nhưng vì chú quá nghiêm nghị, nên không dám nói.

Hàm Phong năm thứ 3, 14 tuổi. (1853/54)

Cha biết tôi có chí xuất trần nên muốn dùng lợi lạc thế gian mà lưu giữ ở lại, bằng cách mời một vị tiên thiên đại đạo, Vương tiên sinh, đến dạy cách tu hành tại nhà. Vị này dạy đọc các sách đạo lão cùng luyện nội ngoại khí công. Tuy tâm tôi không muốn học, nhưng lại không dám nói. Mùa đông, cha giải tang bà nội xong, giao tôi cho chú dạy dỗ, coi sóc, rồi một mình đi Phúc Kiến để nhận chức tại Hạ Môn.

(Đại sự trong năm: Hồng Tú Toàn đóng đô tại Nam Kinh. Tăng Quốc Phiên làm tướng quân.)

Hàm Phong năm thứ 6, 17 tuổi. (1856/57)

Tôi học sách đạo giáo tại nhà trong ba năm, chịu nhẫn hết sức, như ngồi trên bàn đinh. Lại giả vờ làm cho chú vui, nên giúp việc nấu nướng trong nhà, nhưng rất biếng nhác. Ngày nọ, thừa lúc chú đi ra ngoài, tôi nghĩ thời điểm rời nhà đã đến nên xách bị trốn đi Nam Ngạc. Có rất nhiều đường lớn nhỏ, khó đi. Giữa đường, bị người nhà bắt đưa trở về Tuyền Châu. Cùng đi có người em họ tên là Phú Quốc. Chẳng bao lâu, cha cho tiếp rước hai cô họ Điền và Đàm để cử hành hôn lễ. Thế là tôi bị cấm cố tại nhà. Tuy cùng hai cô vợ ở chung nhà nhưng không nhiễm tình dục. Tôi giảng Phật Pháp cho hai cô vợ nghe. Họ cũng hiểu rõ. Thấy người em họ Phú Quốc cũng có chí xuất tục nên đồng học Phật pháp. Nơi phòng riêng hay nhà khách, chúng tôi đều là bạn đạo thanh tịnh.

Hàm Phong năm thứ 8, 19 tuổi. (1858/59)

Tôi quyết chí ly tục. Phú Quốc cũng đồng chung chí hướng. Chúng tôi bí mật xem lộ trình đến Cổ Sơn ở Phước Châu. Tôi làm Bài Ca Túi Da để lưu biệt hai cô họ Điền và họ Đàm. Sau đó cùng Phú Quốc trốn đi đến chùa Dõng Tuyền, Cổ Sơn, Phước Châu. Lễ lão hòa thượng Thường Khai làm thầy xuống tóc.

(Đại sự trong năm: Liên quân Anh Pháp vây hãm Đại Cô. Ký kết hòa ước Thiên Tân.)

Hàm Phong năm thứ 9, 20 tuổi. (1859/60)

Tôi theo hòa thượng Diệu Liên ở Cổ Sơn thọ giới cụ túc, pháp danh là Cổ Nham, cùng Diễn Triệt tự Đức Thanh. Lúc ấy, cha tại Tuyền Châu sai người đi khắp nơi để tìm tôi. Sau khi thọ giới cụ túc xong, Phú Quốc hành cước tham phương tầm thầy học đạo. Từ đó, không còn biết tông tích chi nữa. Tôi ẩn tại một hang động sau núi, lễ sám vạn Phật, không dám lộ diện. Lúc ấy thường gặp hổ sói, nhưng tâm không sợ sệt.

Đồng Trị nguyên niên, 23 tuổi. (1862/63)

Tại hang núi tôi lễ sám, đã mãn ba năm. Ngày nọ, vị chức sư ở Cổ Sơn lên cho hay rằng cha tôi nơi Tuyền Châu đã từ quan về hưu. Tôi không cần phải trốn lánh nữa. Lão hòa thượng Diệu Liên rất khen tôi hằng tâm tu khổ hạnh. Nhưng tu huệ cũng cần phải tu phước, phải nên trở về núi nhậm chức, làm việc. Sau đó, tôi liền trở về núi, nhận công việc.

(Đại sự trong năm: Quân Thường Thắng đánh bại quân Thái Bình. Việt Nam cắt miền Nam cho Pháp.)

Đồng Trị năm thứ 3, 25 tuổi. (1864/65)

Nhậm chức tại Cổ Sơn. Mùa đông, tháng mười hai, nghe tin cha vì bịnh nên đã qua đời tại huyện Tương Lương. Từ đó, không còn hỏi thăm tin tức gia đình, thư từ cũng không liên lạc.

(Đại sự trong năm: Hồng Tú Toàn uống thuốc độc tự tử. Thái Bình Thiên Quốc tan rã.)

Đồng Trị năm thứ 5, 27 tuổi. (1866/67)

Có người đồng hương đến cho hay rằng sau khi cha tôi mất, kế mẫu Vương Thị dẫn hai cô con dâu đi xuất gia làm ni sư. Bà Vương Thị với pháp danh là Diệu Tịnh. Cô Điền Thị pháp danh là Chân Khiết. Cô Đàm Thị pháp danh là Thanh Tiết.

Tôi nhậm chức tại Cổ Sơn đã mãn bốn năm. Công việc của tôi lúc ấy là nấu cơm, làm vườn, hành đường, điển tọa. Tất cả việc đều cực nhọc, nhưng không phiền lòng. Trong chùa, những khi phân phát đồ cúng dường cho chư Tăng, tôi đều không nhận lấy. Mỗi ngày chỉ ăn một bát cơm mà sức khoẻ vẫn tráng kiện. Lúc đó, trên núi có thiền sư Cổ Nguyệt, là vị tu khổ hạnh bậc nhất trong chúng. Tôi thường đàm đạo với Ngài. Nghĩ lại, đã nhậm chức mấy năm mà việc tu trì không có chút phần tiến bộ. Lại nhớ xưa kia, pháp sư Huyền Trang, mười năm trước khi qua Ần Độ thỉnh kinh, tự học ngôn ngữ Ần Độ, tập mỗi ngày đi trăm dặm, và nhịn ăn. Mới đầu một ngày rồi lần lần lên đến mười ngày, để chuẩn bị cho sau này phải đi qua những bãi sa mạc hoang vu, tuyệt không cỏ nước. Việc khổ hạnh của các bậc cổ đức là như thế. Tôi là người gì, sao lại không hành theo gương người xưa? Thế nên, tôi xin từ chức các công việc trong chùa, chia hết các vật dụng tư nhân, chỉ mang theo một y, một bát, một đôi vớ, một tấm bồ đoàn, một cái nón lá, rồi trở lại hang động trong núi mà tu hành.

Đồng Trị năm thứ 8, 30 tuổi. (1869/70)

Ba năm ở hang núi. Khi ấy, tôi sống rất đơn giản. Đói ăn đọt tùng lá dại, khát uống nước suối. Giày vớ ngày càng rách nát, chỉ còn lại một chiếc áo tràng che thân. Đầu quấn theo quyền Kim Cang, tóc dài cả mấy thước, đôi mắt sáng rực. Người ở xa nhìn thấy tưởng là yêu quái, đều bỏ chạy cả. Tôi cũng chẳng cùng người nói chuyện.

Ba năm đầu, lắm khi thấy cảnh giới tốt, mà không tự cho là kỳ lạ. Một lòng quán chiếu cùng niệm Phật. Trong hang sâu núi thẳm, hổ sói rắn trùng không hại. Không nhận sự thương hại, không ăn thức ăn nấu chín của người thế gian. Ngữa mặt nhìn trời, muôn sự đều nằm trong thân. Tâm rất an lạc, như vị trời ở cõi tứ thiền. Nghiệm biết, tai hoạn của thế nhân đều do thân miệng ý gây ra.

Cổ nhân nói rằng âm thanh của một bình bát vang xa hơn cả muôn ngàn tiếng chuông. Nay, tôi một bình bát cũng chẳng có, nên tự tại không ngại. Sức khỏe ngày càng tráng kiện. Tai mắt ngày càng tinh thông linh lợi. Đi nhanh như bay. Tự hỏi mình không biết sao được như thế! Tùy ý thích, có núi thì ở, có lá dại thì ăn. Đi từ nơi này sang nơi khác, như thế một năm trôi qua mà chẳng biết.

Đồng Trị năm thứ 9, 31 tuổi. (1870/71)

Ngày nọ, khi dừng chân nơi một ngọn núi ở Ôn Châu, thì bỗng đâu từ xa một thiền sư đi đến, đảnh lễ và hỏi: "Lâu nghe hạnh cao của Thầy, nên nay đến cầu xin chỉ dạy."

Nghe thế, tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ, liền đáp: "Tri thức ngu muội, thiếu sự tham học; ngưỡng vọng Thượng Tọa từ bi chỉ dạy."

Hỏi: "Thầy hành hạnh này, đã bao nhiêu năm rồi?"

Tôi liền thuật lại những việc đã xảy ra trong những năm sống trong rừng núi.

Vị ấy bảo: "Tôi cũng chỉ tham học đôi chút, không thể chỉ dẫn gì được. Thầy nên đến núi Thiên Thai, Hoa Đảnh, am Long Tuyền, thỉnh vấn lão pháp sư Dung Cảnh. Vị ấy là người có đạo đức nhất ở núi Thiên Thai. Tất nhiên, sẽ chỉ những điều ích lợi cho Thầy."

Nghe thế, tôi đi thẳng đến Hoa Đảnh ở núi Thiên Thai. Vừa đến một am tranh liền gặp một vị tăng, nên tiện dịp hỏi thăm chỗ của lão pháp sư Dung Cảnh.

Đáp: "Vị tăng mặc áo vá đằng kia là Ngài đó."

Tôi liền đi thẳng đến và đảnh lễ. Lão pháp sư chẳng màng quay đầu lại. Tôi liền bạch: "Con nay đến đây hầu mong thân cận lão Pháp Sư. Vọng cầu vì lòng từ bi mà chiếu cố đến con."

Pháp Sư xoay mình lại, nhìn tôi hồi lâu rồi hỏi: "Ông là Tăng, là đạo sĩ, hay là người thế tục?"

Đáp: "Con là Tăng."

Hỏi: "Thọ giới cụ túc chưa?"

Đáp: "Bạch Pháp Sư! Con đã thọ giới rồi."

Hỏi: "Ông tu hành với hình dạng như thế này lâu mau rồi?"

Tôi liền lược thuật lại sự tu hành của mình trong những năm vừa qua.

Hỏi: "Ai dạy ông tu như thế?"

Đáp: "Bạch Pháp Sư! Nhân thấy người xưa, ai nấy đều tu hành khổ hạnh mới đắc đạo, nên con cố học theo."

Đáp: "Ông chỉ biết người xưa tu thân. Vậy ông có biết người xưa tu tâm như thế nào không? Thấy hình thể tu hành của ông như vầy, thật gần với ngoại đạo, chẳng phải là chánh đạo, uổng phí công phu tu hành cả mười năm. Ở rừng sâu núi thẳm, ăn đọt tùng uống nước suối, thọ mạng được trăm ngàn năm, bất quá chỉ là một trong mười loại tiên nhân như trong kinh Lăng Nghiêm thôi, cách đạo rất xa. Tiến lên một bước nữa là chỉ chứng được sơ quả, tự giải thoát. Nếu có tâm Bồ Tát, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, tự độ cùng độ người, tu đạo xuất thế gian nhưng không rời pháp thế gian. Ông miễn cưỡng không ăn cơm, mặc quần không đáy, chưa nói là làm bộ khác thường kỳ dị; công phu quái dị như vầy mà năng thành phiến sao?"

Tôi bị lão Pháp Sư đánh một dùi như thế, đau nhức xương, nên đảnh lễ Ngài cầu chỉ dạy.

Pháp Sư nói: "Tôi dạy ông, nếu nghe thì ở lại, còn không nghe thì nên đi nơi khác."

Đáp: "Bạch Pháp Sư! Con đến đây mong được thân cận gần gũi Ngài. Sao lại dám không nghe lời chỉ dạy!"

Lão Pháp Sư liền cho áo quần, rồi bảo đi cạo đầu, tắm gội sạch sẽ, phân công làm việc trong chùa. Lại dạy khán câu thoại đầu: 'Ai là người đang mang thây chết này?'

Từ đó, tôi ăn cơm cháo lại, cũng học giáo quán của tông Thiên Thai. Siêng năng tu học làm việc nên được Pháp Sư khen ngợi.

Đồng Trị năm thứ 10, 32 tuổi. (1871/72)

Tại am Long Tuyền, hầu cận lão pháp sư Dung Cảnh, tâm được khai mở nhiều. Pháp Sư tuổi ngoài tám mươi, giới luật tinh nghiêm, tông giáo đều thông. Nhiều lần, Pháp Sư bảo tôi lên tòa giảng kinh cho những vị khách tăng đến am tham học.

Đồng Trị năm thứ 11, 33 tuổi. (1872/73)

Nghe theo lời dạy của Pháp Sư, tôi đến chùa Quốc Thanh tham học quy chế thiền môn và cũng đến chùa Phương Quảng học kinh Pháp Hoa.

Đồng Trị năm thứ 13, 35 tuổi. (1874/75)

Trên hai năm, học kinh giáo tại chùa Quốc Thanh, đôi khi cũng trở về am tranh, tham vấn hầu cận lão pháp sư Dung Cảnh.

Quang Tự nguyên niên, 36 tuổi. (1875/76)

Đến chùa Cao Minh nghe pháp sư Mẫn Hi giảng kinh Pháp Hoa. Xong, liền từ biệt lão pháp sư Dung Cảnh, không thể không lưu luyến. Đàm thoại cùng Ngài suốt cả mấy đêm. Sau đó trân trọng cáo biệt.

Xuống núi, đi ngang qua Tuyết Đậu, đến chùa Nhạc Lâm nghe giảng kinh A Di Đà. Xong, liền vượt biển đi tham bái núi Phổ Đà. Nương ở sau chùa qua năm mới. Lúc ở tại núi Phổ Đà, thường đi tham bái các chùa am tự viện.

Tháng mười, sóng triều đẩy dạt xác một con cá voi đến bãi cát Thiên Bộ. Thân cá dài cả trăm thước; mắt lớn như chậu kiểng. Ngư dân xẻ bụng ra thì thấy bên trong có một chiếc thuyền nhỏ, lại có tóc người cùng vòng xuyến v.v... Lại nữa, lúc sóng triều lên, tại động Triều Dương, hiện ra một con rồng, thân vàng sáng chói. Đuôi rồng cũng dài như đuôi cá voi. Rồng hiện ra như thế hồi sau thì biến mất.

Quang Tự năm thứ 2, 37 tuổi. (1876/77)

Từ núi Phổ Đà, tôi trở lại huyện Ninh Ba, đến chùa A Dục Vương, trả một tháng ba đồng tiền lệ phí ăn uống ngủ nghỉ. Tôi lạy xá lợi Phật hai năm để báo ân sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Sau đó, tôi đến chùa Thiên Đồng nghe giảng tông thông kinh Thủ Lăng Nghiêm. Từ Ninh Ba, tôi đi Hàng Châu, triều bái Tam Thiên Trúc cùng các thánh cảnh khác. Nơi Bán Sơn, tôi đến lễ hòa thượng Thiên Lãng cùng vị tăng tri khách Trương Tùng. Tôi ở tại chùa Tây Thiên Mục qua mùa đông. Trên đường từ Ninh Ba đến Hàng Châu thời tiết rất nóng nực. Vì thuyền nhỏ mà người đông, nên thanh niên cùng phụ nữ đều nằm la liệt. Nửa đêm, khi mọi người đang say giấc, tôi cảm giác như có ai đụng đậy thân mình, nên liền tỉnh dậy, thấy bên cạnh mình, một cô gái trần truồng. Tôi không dám nói, vội ngồi dậy, kiết già, trì chú. Cô ấy cũng chẳng dám động đậy. Nếu lúc ấy ngu muội, thì chắc hư bại rồi. Vì việc này, tôi có lời khuyên các vị tu hành rằng không thể không cẩn trọng trong những trường hợp như trên.

Quang Tự năm thứ 4, 39 tuổi. (1878/79)

Tôi đến chùa Thiên Ba, lễ hòa thượng Thanh Quang, rồi ở lại chùa qua đông.

Quang Tự năm thứ 5, 40 tuổi. (1878/79)

Tôi đến Tiêu Sơn lễ hòa Thượng Đại Thủy. Lúc ấy có đề đốc Cung Bảo, Bành Ngọc Đường trú ngụ tại chùa. Ông ta vì mến thích nên thường mời tôi đàm luận Phật Pháp cùng những cách tu hành vài ngày. Càng đàm luận, ông càng sanh thâm tâm cung kính.

Quang Tự năm thứ 6, 41 tuổi. (1880/81)

Tôi đến chùa Kim Sơn để thân cận hòa thượng Quán Tâm, Tân Lâm, Đại Định, v.v... Tọa thiền nơi chùa qua đông.

Quang Tự năm thứ 7, 42 tuổi. (1881/82)

Tôi đến chùa Cao Mân tại Dương Châu, lễ hòa thượng Lãng Huy. Tôi ở lại chùa qua đông. Thiền công rất tiến bộ.

Quang Tự năm thứ 8, 43 tuổi. (1882/83)

Hơn hai mươi năm cắt ái từ thân, xuất gia tu đạo, nhưng đạo nghiệp vẫn chưa thành, mãi phiêu du theo gió nghiệp. Tâm rất xấu hổ. Nay muốn báo ân sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, nên định trở lại biển Nam Hải, núi Phổ Đà nơi hướng đông, rồi từ đó đi về hướng bắc núi Ngũ Đài mà lễ bái. Thế nên, tôi đến núi Phổ Đà, ở nơi đấy vài tháng, tu thiền tĩnh tọa; đôi khi thấy vài cảnh giới. Sau đó, tôi phát tâm hành hương triều bái đến núi Ngũ Đài, miền bắc.

Ngày đầu tháng bảy, từ am Pháp Hoa nơi núi Phổ Đà, tôi khởi hương, hành đi ba bước lạy một lạy. Triều bái trực chỉ thẳng đến núi Ngũ Đài. Lúc đó, phụ hương có bốn thiền sư: Biến Chân, Thu Nghi, Sơn Hà, và Giác Thừa. Sau khi qua biển, mỗi ngày hành bộ không nhiều. Giữa đường chúng tôi ngừng tại Hồ Châu. Sau khi đến Tô Châu, Thường Châu, bốn vị tăng đều từ từ thối lui, còn tôi vẫn lễ bái, hành ba bước một lạy. Khi đến Nam Kinh, tôi lễ tháp tổ Pháp Dung Ngưu Đầu. Sau đó, vượt sông, nghỉ tại chùa Sư Tử ỏ Phổ Khẩu qua năm mới.

(Đại sự trong năm: Pháp chiếm kinh thành Huế, Việt Nam.)

Quang Tự năm thứ 9, 44 tuổi. (1883/84)

Tôi lại bắt đầu khởi hương đi ba bộ một lạy nơi núi Sư Tử. Từ Tô Bắc tôi vào tỉnh Hà Nam, đi qua Phương Dương, Hào Châu, Hạo Lăng, Tung Sơn, chùa Thiếu Lâm, đến chùa Bạch Mã tại Lạc Dương. Ngày đi đêm nghỉ, gió mưa sáng tối, cứ như thế mà đi, cứ như thế mà lạy; khổ vui đói khát, không quên chánh niệm, nhất tâm xưng thánh hiệu Bồ Tát.

Tháng chạp, tôi lạy đến bến Thiết Tá nơi sông Hoàng Hà, đi qua lăng Quang Võ. Ngày đầu, ngủ tại lữ xá. Ngày thứ hai liền băng qua sông. Lúc ấy trời vừa sập tối nên không dám đi. Nơi ấy, bốn bề không người, không khói bếp. Trên đường lộ, có một lều tranh nhỏ, không người ở. Tôi tạm dừng chân nơi đây, kiết già thiền tọa. Tối đến, trời lạnh thấu xương, tuyết rơi dầy đặc. Hôm sau, mở mắt ra, thấy bốn bề đều trắng xóa như thế giới lưu ly, tuyết dầy cả thước, không còn thấy đuờng đi, không người qua lại, nên không biết đi đâu, chỉ ngồi trơ ra mà niệm Phật. Bụng đói da lạnh, chòi tranh không vách che, thu mình ngồi trong góc nhỏ. Tuyết rơi thêm nhiều, gió lạnh càng thâm, bụng càng thêm đói, chỉ còn hơi thở, nhưng chánh niệm không mất. Một ngày, hai ngày, ba ngày, tuyết vẫn rơi như thế, giá lạnh cũng như thế, bụng đói vẫn như thế; từ từ nhập vào trạng thái hôn mê. Trưa ngày thứ sáu, tuyết ngừng rơi, thấy bóng mặt trời mờ mờ, nhưng vì đã lâm bệnh nên không đứng dậy được. Sáng ngày thứ bảy, có một người ăn xin đến, thấy nằm trên tuyết, hỏi han vài câu, nhưng tôi không thể trả lời được. Biết nhuốm bệnh nặng, nên ông gạt tuyết ra, lấy rơm nhóm lửa, nấu cháo bằng gạo vàng cho tôi ăn. Ắn xong, mình toát mồ hôi, khí lực bình phục lại.

Ông hỏi: "Ngài từ đâu đến đây?"

Đáp: "Thưa, tôi từ núi Phổ Đà, Nam Hải đến."

Hỏi: "Vậy Ngài đi đâu?"

Đáp: "Thưa, tôi triều bái đến núi Ngũ Đài."

Tôi hỏi lại danh tánh của ông. Ông đáp: "Tôi họ Văn, tên Cát."

Tôi lại hỏi: "Vậy Ngài đi đâu?"

Đáp: "Tôi từ núi Ngũ Đài, nay trở về Trường An."

Hỏi: "Từ núi Ngũ Đài đến, vậy ông có biết hết chư tăng ở đó không?"

Đáp: "Trên đó, ai ai cũng biết tôi cả!"

Hỏi: "Từ đây đến núi Ngũ Đài, tôi phải đi qua những vùng nào?"

Đáp: "Ngài phải đi qua Bồng Huyện, Hoài Khánh, Hoàng Sơn Lĩnh, Tân Châu, Thái Tục, tỉnh Thái Nguyên, Đại Châu, Nga Khẩu, tức đến núi Ngũ Đài. Khi tới Bí Ma Nham, nơi đó, sẽ gặp một vị tăng từ miền Nam lên, tên Thanh Nhất, là bậc tu hành rất thâm cao."

Tôi hỏi tiếp: "Từ đây đến núi lộ trình bao xa?"

Đáp: "Hơn hai ngàn dặm."

Hôm sau, khi mặt trời vừa lên, ông nấu cháo gạo vàng với tuyết. Thấy tuyết đang tan thành nước trong nồi, ông chỉ tay vào và hỏi: "Ở Nam Hải có vật này không?"

Đáp: "Thưa, không."

Hỏi: "Vậy Ngài uống bằng gì?"

Đáp: "Thưa, tôi uống bằng nước."

Khi tuyết trong nồi đã tan, ông lại chỉ tay vào nước, hỏi: "Vậy chứ đây là gì?"

Tôi không trả lời đuợc.

Ông hỏi tiếp: "Ngài đi lễ lạy danh sơn để mong cầu điều chi?"

Tôi đáp: "Khi vừa sanh ra thì không còn thấy mẹ. Thế nên, nay muốn lễ lạy để báo ân sanh thành của mẹ hiền."

Hỏi: "Vai mang hành lý, đuờng xa trời lạnh, bao giờ Ngài mới đến được núi Ngũ Đài? Khuyên Ngài chớ bái lạy làm chi."

Đáp: "Thệ nguyện đây đã định trước rồi, thì không cần hỏi chi năm tháng ngắn hay dài."

Bảo: "Thệ nguyện như Ngài khó mà lập được. Hiện nay thời tiết tốt, nhưng tuyết vẫn chưa tan, không thể tìm đường nào được. Thế nên, Ngài hãy theo dấu chân tôi mà đi. Khoảng hai mươi dặm sẽ gặp núi Tiểu Kim. Thêm hai mươi dặm nữa sẽ đến Bồng Huyện; nơi đó sẽ có chùa mà nghỉ ngơi."

Sau đó chúng tôi chia tay, tạm biệt. Nhân vì tuyết dầy không thể lạy, nên chỉ quay lưng lại, lễ bước chân của mình. Đến núi Tiểu Kim tôi nghỉ qua đêm. Hôm sau, khởi hương đi qua Bồn Huyện. Từ Bồn Huyện đi đến Hoài Khánh. Trên đường đến chùa Hồng Phước, có một lão hòa thượng tên là Đức Lâm, thấy tôi lễ lạy trên đường, liền đến cầm phụ cây hương và nói: "Thỉnh Thượng Tọa vào chùa nghỉ ngơi."

Sau đó, lại bảo đệ tử mang hành lý của tôi vào chùa, ân cần tiếp đãi. Ắn cơm uống trà xong, Hòa Thượng hỏi: "Thượng Tọa bắt đầu từ nơi nào khởi hương lễ bái?"

Tôi liền kể sơ lại rằng vì muốn báo đáp thâm ân của cha mẹ nên từ núi Phổ Đà khởi hương lễ lạy đến nơi đây, đã hơn hai năm trường.

Đang khi đàm đạo, biết tôi xuất gia tại Cổ Sơn, lão Hòa Thượng bất giác rơi lệ mà nói: "Tôi có hai huynh đệ đồng tu từ Hành Dương và Phước Châu đến. Cả ba chúng tôi đều hành hương lên núi Ngũ Đài, đồng ở lại đây ba mươi năm trường. Sau đó, họ chia tay với tôi để trở về quê quán. Từ đó bặt tăm tin tức. Nay nghe giọng nói Hồ Nam của Thượng Tọa, lại cũng là Phật tử Cổ Sơn, chợt như gặp được huynh đệ đồng tu thuở xưa, bất giác động niệm. Tôi nay đã ngoài tám mươi lăm. Chùa đây vốn đầy đủ gạo lúa, nhưng năm rồi giảm thiểu đôi chút. Tuyết rơi nhiều như vầy, chắc năm tới sẽ thu hoạch khá hơn. Thượng Tọa có thể ở lại."

Vì lòng chí thành khẩn thiết của lão Hòa Thượng, nên tôi miễn cưỡng lưu trú lại chùa qua năm.

Quang Tự năm thứ10, 45 tuổi. (1884/85)

Mồng hai tháng giêng, từ chùa Hồng Phước tôi khởi hương lễ bái. Đến phủ Hoài Khánh rồi trở lại chùa nghỉ qua đêm. Mồng ba, tôi trân trọng từ biệt lão hòa thượng Đức Lâm. Hôm đó, đến phủ, thành nội tên là Tiểu Nam Hải. Vì không biết nghỉ qua đêm nơi nào, nên tôi ra ngoài thành ngủ bên lề đường. Tối đó, bụng đau kịch liệt. Sáng ngày mồng bốn cũng cố lễ bái. Chiều đến, thân bị cảm lạnh. Mồng năm, bắt đầu bị kiết lỵ, nhưng những ngày kế cũng rán lễ lạy. Ngày mười ba đến Hoàng Sa Lĩnh. Trên đỉnh núi có một ngôi miếu hoang tàn, không mái nóc. Khi đến đó, tôi kiệt sức, không thể đi xin thức ăn được. Ngày đêm đi cầu cả chục lần, không sức khởi động. Vì am miếu ở tại đảnh núi, không người qua lại, chỉ nhắm mắt chờ chết mà thôi, nhưng thâm tâm không hề hối hận. Khuya ngày mười lăm, chợt thấy bên dưới phía tây miếu có ai đang đốt lửa, nghi là ăn trộm, nhìn kỹ lại thì nhận ra người ấy chính là Văn Cát lúc trước, thâm tâm mừng rỡ, liền gọi: "Tiên sinh Văn Cát."

Ông liền cầm đuốc tới và hỏi: "Đại Sư Phụ! Sao Ngài vẫn còn ở đây?"

Tôi kể lại cho ông nghe những việc đã xảy ra. Ông liền ngồi xuống bên cạnh, an ủi và đưa một chung nước cho tôi uống. Đêm đó, gặp được Văn Cát, thân tâm rất thanh tịnh. Ngày mười sáu, Văn Cát đem y phục dơ bẩn của tôi ra giặt giũ, lại cũng cho một chén thuốc để uống. Ngày mười bảy, bịnh thuyên giảm rất nhiều. Sau khi ăn hai chén cháo gạo vàng thì ra mồ hôi nhuể nhại. Ngày mười tám thì khỏi bịnh. Tôi cảm tạ Văn Cát, nói: "Hai lần nguy hiểm, đều nhờ Tiên sinh cứu tế, cảm ơn bất tận."

Văn Cát đáp: "Chỉ là việc nhỏ thôi."

Tôi lại hỏi: "Bây giờ Tiên sinh đi đâu?"

Đáp: "Trở lại núi Ngũ Đài."

Tôi nói: "Tôi vẫn còn bịnh, lại phải lễ bái, không thể theo kịp Tiên sinh được."

Đáp: "Xem Ngài từ tháng chạp đến giờ, lễ lạy trên đường không được nhiều cho lắm. Vậy đến năm nào mới tới! Sức của Ngài cũng không được khỏe, chắc khó mà lễ lạy. Do đó, không nhất định phải lễ lạy, triều bái lên Ngũ Đài."

Đáp: "Tiên sinh có ý tốt, tôi rất cảm ơn, nhưng vì lúc chào đời không nhìn được mẹ mình. Mẹ vì sanh ra tôi nên mới qua đời. Còn cha chỉ được một mụn con, mà tôi lại bỏ trốn đi tu. Do đó, cha từ quan, buồn rầu nên giảm tuổi thọ mà mất. Trời cao lồng lộng, ân cha nghĩa mẹ bao la. Bao năm trằn trọc không an, nên nay mới phát nguyện triều bái, cầu Bồ Tát gia hộ, nguyện cho cha mẹ được thoát khổ, sớm sanh về cõi tịnh độ, thì chẳng quản chi trăm ngàn gian lao trước mắt. Nếu không đến được thánh cảnh, thì chết cũng không dám thối nguyện."

Văn Cát nói: "Tâm thành hiếu thảo kiên cố của Ngài thật rất khó lập. Nay tôi trở về núi, cũng không gấp chi. Tôi muốn phụ mang hành lý trên đường để Ngài dễ dàng lễ lạy, bớt đi sầu khổ, tâm không sanh hai niệm."

Tôi đáp: "Nếu thế, công đức của Tiên sinh thật lớn vô cùng. Lễ bái đến Ngũ Đài, nguyện đem công đức này, phân nửa hồi hướng về cho cha mẹ sớm chứng đạo Bồ Đề, phân nửa xin hồi hướng đến Tiên sinh để báo đền ơn cứu mạng. Vậy thưa có được không?"

Đáp: "Ngài thật là người con hiếu thảo, còn tôi chỉ thuận tiện mà giúp. Không dám nhận lời cảm tạ."

Sau đó Văn Cát lo cho tôi cả bốn ngày liền. Bịnh tình thuyên giảm rất nhiều.

Ngày mười chín, tuy còn yếu nhưng tôi vẫn khởi hương lễ bái. Việc mang hành lý và ăn uống có Văn Cát lo giùm. Bao vọng tưởng trong đầu đều chợt ngừng. Ngoài không việc phiền lụy. Trong không vọng niệm; bịnh ngày càng thuyên giảm, sức khỏe ngày càng tăng. Từ sáng đến tối, đi lễ lạy được khoảng bốn mươi dặm, nhưng không cảm giác mệt nhọc. Tháng hai, đến chùa Ly Tướng huyện Thái Tục, vị tăng tri khách thấy, liền chào. Sau đó quay đầu lại nhìn Văn Cát và hỏi tôi: "Vị này là ai?"

Tôi thuật lại đầu đuôi sự việc xảy ra trên đường. Nghe xong, tăng tri khách liền nổi giận, bảo: "Ra ngoài hành cước, không biết thời cuộc. Năm nay đất bắc nghèo khó, vậy triều bái núi gì? Thầy chắc là một đại lão quan, mới có người theo hầu cận. Nếu muốn hưởng phước, cần gì phải ra ngoài đi như vầy. Thầy xem có chùa nào mà có người thế tục xách bị theo hầu không?"

Nghe lời khiển trách như thế, tôi không dám đáp lời lại. Tôi nhận lỗi mình và cáo từ. Tăng tri khách bảo: "Vô lý! Tự tiện đến, vậy ai bảo Thầy đi?"

Nghe lời trước ngược lời sau, tôi đáp: "Thỉnh tiên sinh Văn Cát đến trọ tại lữ quán, còn tôi xin làm phiền Ngài nghỉ lại đây một đêm. Vậy, thưa có được không?"

Tăng tri khách đáp: "Vậy cũng được."

Văn Cát bảo: "Từ đây đến Ngũ Đài cũng không còn xa lắm. Tôi sẽ trở về trước, còn Ngài cứ từ từ mà đi. Hành lý của Ngài, không lâu sẽ có người mang lên núi dùm."

Tôi cố giữ Văn Cát lại nhưng không được. Lại đưa tiền cho, Văn Cát cũng không nhận. Vội từ biệt mà đi. Sau đó, tăng tri khách đổi sắc mặt vui vẻ, mang đồ của tôi vào chùa, đi ra nhà bếp nhúm lửa nấu trà luộc bún. Ngạc nhiên trước thái độ ấy, tôi nhìn bên phải trái, chẳng thấy một ai, liền hỏi: "Thưa Thầy, trong chùa đây tăng chúng nhiều ít?"

Đáp: "Mấy năm trước, tôi ở bên ngoài sông Giang, rồi trở lại đây nhận chức trụ trì. Nơi nầy liên tiếp bị thất mùa, nên mọi người đi hết, chỉ còn lại mình tôi. Lương thực chỉ có bún miến như vầy thôi. Vừa rồi, ngoài cửa, tôi chỉ nói đùa thôi. Xin Thầy đừng để trong lòng."

Tôi nghe lời này, buồn bực cả chục phần, chẳng nói gì được, miễn cưỡng nuốt nửa tô bún, rồi liền cáo từ. Thầy tri khách đây cố giữ lại, nhưng tôi không có lòng gì để đáp ứng. Tôi liền đi đến lữ quán tìm kiếm Văn Cát, nhưng không gặp. Lúc ấy, là mười tám tháng tư, tuy trời tối nhưng trăng tỏ. Vì muốn đuổi kịp Văn Cát, nên tôi lễ lạy trong đêm hôm luôn, hướng về phủ Thái Nguyên mà khởi hương. Vì nóng lòng gấp gáp, nên ngày hôm sau máu từ mũi chảy ra không dừng. Hai mươi ngày kế, đến chùa Bạch Vân tại Hoàng Độ Câu. Vị tăng tri khách thấy mũi miệng tôi ra máu nên không cho tạm trú, chỉ miễn cưỡng cho nghỉ qua đêm. Sáng ngày hai mươi mốt, đi vào thành Thái Nguyên, đến chùa Cực Lạc, nuốt phải những lời chửi mắng, không được cho nghỉ qua đêm. Sáng ngày hai mươi hai, ra ngoài thành lễ bái. Nơi cửa bắc, gặp một thầy trẻ tên là Văn Hiền. Thấy tôi, liền đến gần, cầm giúp hương và mang phụ hành lý, rồi mời vào chùa nghỉ ngơi. Quí mến kính trọng như người thân. Dẫn tôi vào phòng phương trượng, tiếp đãi cơm nước; đàm đạo một hồi rồi tôi liền hỏi: "Tuổi thầy chắc chỉ ngoài hai mươi, lại hình như là người ngoài tỉnh, làm thế nào mà được trụ trì nơi đây?"

Đáp: "Bạch Thượng Tọa! Cha của con làm quan nơi đây đã nhiều năm, nhậm chức tại phủ Bình Dương, bị gian thần hãm hại. Mẹ vì vậy uất khí mà mất. Con nuốt lệ xuất gia. Quan thân sĩ thứ nơi đây, biết gia cảnh, nên thỉnh con về trụ trì chùa này. Con chỉ cố gượng ở lại, vì lúc nào cũng muốn rời chỗ này. Nay được chiêm ngưỡng đạo phong oai đức của Thượng Tọa, tâm rất kính phục. Thỉnh Ngài ở lại nơi đây lâu dài để con được dịp hầu cận."

Tôi thuật lại nguyên do phát nguyện lễ bái. Thầy trụ trì này tâm càng thêm cung kính tin phục, cố lưu giữ tôi lại cả mười ngày. Sau đó tôi tiếp tục lên đường lễ bái. Thầy cúng dường y phục cùng tiền lệ phí, nhưng tôi đều không nhận. Thầy cầm phụ hương, tiển tôi đi cả hơn mười dặm, rơi lệ từ biệt. Lúc ấy là mồng một tháng năm. Tôi hướng thẳng đến Hân Châu.

Sáng nọ, đang lúc lễ lạy trên đường, đằng sau tiến đến một cỗ xe ngựa, đi hoãn lại mà không vượt qua mặt. Tôi biết nên lánh qua một bên. Từ trên xe ngựa bước xuống một vị quan, đến gần liền hỏi: "Tại sao Đại Sư lạy trên đường như vầy?"

Tôi thuật sơ qua lời phát nguyện của mình. Vị quan đây cũng là người Hồ Nam. Tôi cùng Ngài đàm luận rất hợp ý.

Vị Quan nói: "Như vầy, tôi hiện đang trú tại chùa Bạch Vân, nơi Nga Khẩu. Ngài triều bái đến Ngũ Đài thì phải đi ngang qua đó. Hành lý của Ngài đây, tôi sẽ mang lên đó trước."

Tôi cảm tạ xong, vị quan trở lên xe rồi đi khuất.

Mỗi ngày vẫn lễ bái như thường, không còn bị trở ngại chi nữa. Giữa tháng năm, tôi lạy đến chùa Bạch Vân, gặp viên quan cai quản doanh trại, người mang hành lý dùm tôi hôm trước. Ngài thấy tôi đến liền ra nghinh tiếp, mời vào doanh trại nghỉ ngơi, ân cần ưu đãi. Tôi nghỉ ở nơi đây ba ngày, sau đó cáo từ. Vị quan ấy cúng dường tiền lộ phí cùng lễ vật nhưng tôi không nhận. Thế nên, vị quan ấy phái quân lính mang hành lý của tôi cùng tài vật cúng dường đến chùa Hiển Thông.

Tôi khởi hương lễ bái đến núi Khuê Phong, Bí Ma Nham, Sư Tử Oa, Long Động, cùng các nơi khác. Kỳ tích nước non, tả không thể hết. Vì bận lễ bái, nên không thể nhìn xem rõ ràng. Cuối tháng năm đến chùa Hiển Thông, lấy hành lý do quân lính mang lên mấy ngày trước. Khi tới chùa Hiển Thông, việc trước nhất là đến các chùa am tự viện kế cận dâng hương lễ bái. Đi khắp nơi hỏi thăm tung tích Văn Cát, không ai biết cả. Sau đó, thuật lại sự tình nguyên do cho một lão tăng nghe. Lão tăng ấy liền chắp tay nói: "Đó là hóa thân của Bồ Tát Văn Thù vậy."

Tôi liền đảnh lễ cảm tạ Bồ Tát.

Ngày hai mươi hai, khởi hương. Hai ngày sau, lạy qua Đông Đài. Đêm tối, trăng thanh sao sáng, tôi lạy đến một ngôi thất bằng đá rồi dâng hương cùng lễ bái, tụng kinh, ngồi thiền một tuần trong thất. Sau đó xuống núi, lạy qua hang Na La Diên. Lương thực hết. Mồng một tháng sáu, trở về chùa Hiển Thông. Ngày hôm sau, khởi hương, lên đỉnh Hoa Nghiêm ở qua đêm. Ngày thứ ba, lạy qua Bắc Đài, rồi nghỉ qua đêm tại Trung Đài. Ngày thứ tư, lạy qua Tây Đài nghỉ qua đêm. Ngày thứ năm, trở về chùa Hiển Thông. Ngày thứ bảy, lạy qua Nam Đài và đả thiền thất nơi đây. Ngày mười lăm, trở về chùa Hiển Thông, tham gia đại hội Phật giáo vào tháng sáu. Đến đây lời nguyện bái hương ba bước một lạy trong ba năm để cầu cho cha mẹ được siêu thoát đã hoàn mãn.

Trong ba năm, trừ những lúc bị bịnh hoạn, gió mưa sương tuyết cản trở, không thể lễ lạy bên ngoài, còn trong mọi thời, tôi luôn nhất tâm chánh niệm. Lễ lạy trên đường, gặp bao gian nan, nhưng tâm luôn vui vẻ. Mỗi lần xét lại tâm mình, hể càng gặp khổ bao nhiêu thì tâm càng an lạc bấy nhiêu. Vì thế mới hiểu được lời của cổ nhân nói rằng nếu tiêu bớt một phần tập khí thì được một phần sáng suốt. Nhẫn được mười phần phiền não thì chứng được ít phần bồ đề.

Lại nữa, trên đường có rất nhiều danh lam thắng cảnh. Từ núi Phổ Đà đến Giang Triết, Trung Châu, Hoàng Hà, Thái Hành, thắng địa danh sơn nhiều kể không thể hết. Hồi ký du lịch xưa nay, miêu tả rất tường tận, nhưng nếu thân không đến những nơi đó thì không thể cảm nhận rõ ràng. Như thánh cảnh Thanh Lương tại Ngũ Đài, nơi Bồ Tát Văn Thù thường phóng quang. Lại có những dãy núi thẳng sừng sửng cao ngàn thước, tuyết phủ ngàn năm; những cây cầu đá, lầu các treo lơ lững trên không, khó tìm thấy được những nơi khác.

Trong lúc tôi đang bái hương, ba bước một lạy, không thể nhìn xem thưởng thức được những thắng cảnh nầy. Khi nguyện lễ lạy đã xong thì cũng là lúc đến tại những chỗ đó. Tôi không muốn để cho thần núi cười tánh hiếu kỳ của mình.

Đại hội Phật giáo kết thúc, tôi lên đảnh Đại Loa, lễ lạy những ánh đèn Trí Huệ. Đêm thứ nhất, không thấy chi cả. Đêm thứ hai, thấy bên đỉnh Bắc Đài có một chùm lửa, bay qua Trung Đài rồi rơi xuống, từ một chùm lửa to mà phân ra cả chục chùm lửa bé, lớn nhỏ không đồng. Đêm thứ ba, lại thấy bên Trung Đài, trên không trung xuất hiện ba chùm lửa sáng rực, bay lên bay xuống. Nơi Bắc Đài cũng hiện ra bốn chùm lửa, lớn nhỏ không đồng. Mồng mười tháng bảy, tôi bái tạ Bồ Tát Văn Thù xong, liền trở xuống núi. Từ đình Hoa Nghiêm đi về hướng bắc, đến Đại Doanh, phía nam của Hồn Nguyên, qua Bắc Ngạc ở Hằng Sơn; lên thẳng khẩu Hổ Phong có một tảng đá ghi khắc rằng đây là ngọn núi đầu tiên ở phương bắc. Đi vào miếu trên đó thì thấy những tầng cấp cao vời vợi như lên tận trời xanh, cùng cả rừng đá thạch. Lễ xong, tôi liền xuống núi, đến phủ Bình Dương, thăm hang động tiên nhân Nam Bắc; hướng về phía nam của thành có miếu vua Nghiêu rất hùng tráng và mỹ lệ. Trở về hướng nam, đến Bồ Châu, Lô Thôn, lễ miếu Hán Thọ Hưởng Hầu; qua sông Hoàng Hà, vượt Đổng Quan, vào đất Xiểm Tây, đến Hoa Ầm; lên núi Thái Hoa, lễ miếu Hoa Sơn Tây Ngạc. Vòng qua Thiên Xích Tràng, eo đất Bá Xích, tới Lão Quân Lê Câu, đến tham quan các danh lam thắng cảnh khác. Tôi nghỉ tại những nơi đó tám ngày. Tôi rất ngưỡng mộ hai vị Thánh Tề Gi.

Lại qua núi Thủ Dương, tới chùa Quán Ấm ở Hương Sơn thuộc phía tây nam tỉnh Xiểm Tây, xem phần mộ của Trang Vương; vào tỉnh Cam Túc, đến chùa Bình Lương, núi Không Động. Gần cuối năm, tôi trở về Hương Sơn ở qua năm mới.

Quang Tự năm thứ 11, 46 tuổi. (1885/86)

Mùa xuân, tôi rời chùa Hương Sơn, đi về hướng tây, đến ải quan Đại Khánh, vào đất Xiểm Tây, qua Diệu Châu, Tam Nguyên, tới Hàm Dương xem cây cổ thụ Cam Đường của Triệu Bá; thăm đất Trường An nơi tường thành hùng vĩ, vẫn còn nhiều di tích lịch sử. Phía đông bắc ngoài thành có chùa Từ Ấn, trong chùa có tháp Đại Nhạn được cất cao bảy từng, cùng bia đá đời nhà Đường và bia Cảnh Giáo Đại Tần. Trước cung Phủ Học là một rừng bia đá, có hơn bảy trăm loại khác biệt. Phía đông của thành có cầu Ba Kiều, rộng khoảng bảy mươi hai thước, cũng có lâu trạm, nơi khách qua đường thường gặp mặt, hẹn hò. Sau khi dừng lại cửa ải Dương Quan, tôi đến chùa Hoa Ngiêm, lễ tháp hòa thượng Đỗ Thuận, tháp quốc sư Thanh Lương. Qua chùa Ngưu Đầu, Hưng Quốc lễ tháp pháp sư Huyền Trang. Tiếp tục, đến núi Chung Nam phía đông Ngũ Đài, có chùa Bảo Tạng; Bạch Thủy Lương nơi sườn núi Hương Cổ, tại đây có hai vị thánh tăng ẩn tu. Tới động Ngân Đồng ở Gia Ngũ Đài, là chỗ ẩn tu của tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm. Sau đó, đến phía nam Ngũ Đài, gặp chư đại hòa thượng Giác Lãng, Trị Khai, Pháp Nhẫn, Thể An, Pháp Tánh, đang kết am tranh tọa thiền nơi đây. Chư vị giữ tôi ở lại. Pháp Nhẫn trụ tại Lão Hổ Oa, Trị Khai ở Xả Long Xuân. Pháp Tánh trú tại động Tương Tử. Tôi cùng Giác Lãng đồng ở tại am tranh lớn. Sáng sớm mồng một tháng ba, nơi sau chánh điện, tôi chợt thấy chòm sao Thiên Chửu bay loạn xạ trên không trung, hồi lâu mới mất. Không biết đó là điềm gì.

(Đại sự trong năm: Chiến tranh Trung-Pháp bùng nổ. Việt Nam ký hòa ước cắt nước cho Pháp.)

Quang Tự năm thứ 13, 48 tuổi. (1887/89)

Trên hai năm, kết am tranh tại phía nam Ngũ Đài, cùng chư tăng tham cứu tu hành, được lợi ích rất nhiều. Tháng hai, xuống núi, đến lễ chùa Hoàng Dụ tại núi Thúy Vi; lại qua chùa Tịnh Nghiệp tại núi Hậu An lễ tháp Tuyên Tổ thuộc phái Luật Tông, và đến chùa Thảo Đường lễ đạo tràng của pháp sư Cưu Ma La Thập. Kế, đến núi Thái Bá, cao cả một trăm lẻ tám dặm, tuyết vẫn chưa tan trong mùa hè. Lại qua chùa Nhị Bản, Đại Bản; lên đỉnh Hoa Trì nơi có mạch nước phân thành bốn dòng; đến trấn Tử Ngưu, qua phủ Hán Trung nơi Hán Cao Tổ lạy tướng mình. Tới miếu Chư Cát tại Bao Thành, thăm đèn vạn năm của Trương Phi, cùng các danh lam thắng cảnh khác. Đi xa, vượt Long Động Bối, ải quan Thiên Hùng, tiểu Nga Mi, ải quan Kiếm Môn, chùa Bát Bồng, ải quan Bạch Mã, thăm mộ phần vua Bàng Thống, miếu Văn Xương tại huyện Tử Đồng tỉnh Tây Xuyên. Trên đường, đi qua núi Thất Khúc, suối Cửu Khúc, ải Kiếm Môn nơi mà chót núi bị cắt làm đôi, hai vách đá thẳng như lưỡi kiếm. Sử ghi rằng có một vị tướng quân giữ ải, đánh tan đạo quân cả mười ngàn người. Ở trên có thành Khương Duy, tức nơi đóng binh của Bá Ước thuở xưa. Cầu treo khó đi, như lên trời xanh. Thật lời của người xưa không hư dối. Đến Quảng Hán phía nam huyện Tân Bộ, tại chùa Bảo Quang nghỉ qua năm mới. Năm ấy, khi vào đất Tây Xuyên, đơn độc hành bộ, ba y một bát, chẳng chi phiền lụy, thanh thản an nhàn với cảnh non nước, khiến thân tâm lắng đọng.

Quang Tự năm thứ 14, 49 tuổi. (1888/89)

Tháng giêng, từ chùa Bảo Quang, khởi hành vào tỉnh Thành Đô, lễ chùa Chiêu Giác, viện Văn Thù, chùa Thảo Đường, cung Thanh Dương; qua Hoa Dương, Song Lưu, hướng về phía nam đến huyện Mi Sơn, huyện Hồng Nhã. Tới chân núi Nga Mi, từ chùa Phục Hổ, động Cửu Lão qua Sơn đảnh của núi Nga Mi lễ hương. Đêm đến, thấy Phật quang; muôn ngàn đóm lửa sáng rực như một giải ngân hà trên trời. Thắng cảnh như thế, tả không thể hết. Nơi chùa Bảo Quang, tham kiến lão hòa thượng Ứng Chân, rồi trú tại chùa mười ngày. Sau đó, qua chùa Vạn Niên, lễ điện Phật Tỳ Lô Xá Na. Xuống núi, đến Nhã Châu, qua huyện Huỳnh Kinh, vào Lô Định. Tới đây là biên giới của tỉnh Tây Xuyên. Tháng năm, băng qua sông Lô. Trong huyện Nhã An có sông Đại Độ rộng cả ba dặm; bắc ngang sông là cầu dây Lô Định. Người đi trên cầu này phải rất cẩn thận vì cầu thường đong đưa lắc lư. Đi về hướng tây, qua Đả Tiến Lô, Lý Đường, Ba Đường. Lên phía bắc, đến Sát Mộc Đa tức Xương Đô. Qua hướng tây tới Thạc Đốc; đi ngang A Lan Đa và Lạp Lý. Nơi đây đất rộng người thưa, đủ chủng tộc như người Hoa, Tây Tạng, Mông Cổ, v.v... Ngôn ngữ khác biệt, Người biết tiếng Hoa chỉ vài ba trăm. Tại Lý Đường có ngọn núi thần Công Cát là vùng đất thánh của Phật tử người Tây Tạng. Ba Đường là vùng núi cao hiểm trở. Sát Mộc Đa có nhiều sông ngòi. Các chủng tộc phần lớn theo Lạt Ma Giáo. Từ Lạp Lý đi về hướng nam đến Giang Đạt; vượt qua vùng này tức đến biên giới Tây Tạng.

Tôi vào đất Tây Tạng, đến Điểu Tô Giang, băng ngang sông Lạp Tát, tức đến thủ đô Lạp Tát; đây là trung tâm hành chánh và tôn giáo của toàn nước Tây Tạng. Phía tây bắc là núi Đạt Bố Lạp, có cung Đạt Bố Lạp, cao ba mươi tầng; chánh điện và mái ngói rất trang nghiêm. Đá thạch chạm vàng trông chóa mắt, là nơi mà đức Phật sống Đạt Lai Lạt Ma thường ngồi thuyết pháp. Vây quanh là hai mươi ngàn vị Lạt Ma. Vùng phụ cận có ba ngôi chùa lớn như Cát Nhĩ Bàn, Biệt Bạng, Sắc Lạp, cũng có hơn ngàn vị Lạt Ma. Vì ngôn ngũ không thông, khi đến các chùa, tôi chỉ dâng hương cùng lễ đức Phật sống thôi. Lại đi về hướng tây, qua Cung Cát, Giang Tử, đến Nhật Khách Đáo; phía tây có chùa Gia Thập Luân Bố, kiến trúc đồ sộ hùng vĩ mỹ lệ, rộng cả mấy dặm, là trung tâm hành chánh và tôn giáo thứ nhì của Tây Tạng, do vị Ban Thiền Hoạt Phật lãnh đạo, cũng có bốn năm ngàn vị Lạt Ma thường vây quanh. Từ Tây Xuyên vào đất Tây Tạng, đi cả một năm; mặt trời lên thì đi, mặt trời lặn thì dừng; leo núi băng sông, lắm khi cả mấy ngày mà chẳng gặp một bóng người; chim thú khác lạ, phong tục danh xưng rất dị kỳ; tăng sĩ không giữ giới luật, ăn thịt bò thịt dê, y áo đạo phục tông mũ đỏ mũ vàng khác biệt; chợt nhớ lại pháp hội tại Kỳ Viên Tịnh Xá lúc Phật còn tại thế mà rưng rưng nước mắt.

Cuối năm ấy ở lại Tây Tạng qua năm mới.

Quang Tự năm thứ 15, 50 tuổi. (1889/90)

Tôi không muốn ở lại Tây Tạng. Xuân đến, đi về hướng nam, qua Lạp Cát, Á Đông, là quan ải lớn nhất giữa Tây Tạng và Ần Độ. Tới nước Bất Ban, vượt bao núi cao vách đứng, không biết tên chi, hoặc gọi là Thông Lĩnh hay Tuyết Sơn. Đến thành Dương Bộ, lễ bái thánh tích Phật đà, rồi tới hải cảng Mãnh Gia Lạp. Vượt biển đi Tích Lan, lễ bái các thánh tích xong liền dùng thuyền đến Miến Điện, triều bái tháp Đại Kim; qua Ma La Điện Cát Xá Lợi; nơi đây có một tảng đá lớn kỳ dị, gọi là chỗ ngồi của tôn giả Đại Mục Kiền Liên, có rất nhiều người đến lễ bái.

Tháng bảy, khởi hành trở về nước. Từ Lạp Thức qua ải Hán Long, tức vào Vân Nam. Vượt qua Miễn Ninh, Long Lăng, Cảnh Đông, Mộng Hóa, Triều Châu, Hạ Quan, đến Đại Lý, xem hồ bạc Nhĩ Hải, tiếng sóng vang xa cả vài dặm, thật là nơi rất lạ kỳ. Nguyện đầu tiên khi trở về nước là đi tham bái núi Kê Túc, nơi tôn giả Ma Ha Ca Diếp đang nhập định đợi Phật Di Lặc ra đời. Băng qua hồ Nhĩ Hải, hướng phía đông bắc mà đi, đến Hoán Sắc, Bá Đam, Bình Sa, Sơn Giác, miếu của An Bang Đại Vương; tới Linh Sơn nhất hội phường tức núi Kê Túc. Giữa núi là đất Ô Ca. Tương truyền lúc tôn giả Ca Diếp vào núi, có bảy vị vua đi theo hộ tống, không đành lòng trở về, ở tại đây tu hành, thành thần hộ pháp, tức miếu Đại Vương. Tôi đi thẳng lên chánh điện của núi; trong ngôi chánh điện có thờ tôn tượng tôn giả Ca Diếp. Tương truyền, khi tôn giả A Nan đến lễ bái thì cửa đá tự nhiên mở. Thánh cảnh trang nghiêm huyền diệu. Thạch đá tự biến thành cửa đá gọi là cửa Hoa Thủ. Ngài Ma Ha Ca Diếp đang nhập định bên trong. Cửa đá lớn tựa như cửa thành, cao cả vài trăm thước, rộng hơn trăm thước. Hai cánh cửa đều đóng nhưng đường lằn giữa hai cửa hiện rõ ràng. Hôm ấy, du khách cùng người địa phương dẫn đường đến rất nhiều. Lúc tôi dâng hương lễ bái, tự nhiên nghe âm thanh của ba tiếng đại hồng chung; người địa phương đều vui mừng lễ bái theo và nói: "Hể mỗi lần có bậc dị nhân đến thì đều nghe tiếng chuông trống, mõ khánh vang lên. Chúng tôi đã từng nghe tiếng khánh mõ, mà chưa từng nghe tiếng đại hồng chung. Nay Sư Phụ đến đây lễ bái lại nghe tiếng đại hồng chung, chắc đạo hạnh của Ngài cao lắm."

Tôi cảm tạ không dám nhận lời tán tụng ấy. Khi ấy là ngày ba mươi tháng bảy. Lại lên đỉnh núi Thiên Trụ. Đây là nơi cao nhất của toàn núi. Từ đỉnh xuống chân núi, dài khoảng ba mươi dặm. Trên đỉnh có ngôi điện bằng đồng cùng một tòa tháp Lăng Nghiêm. Theo gia phả của núi thì toàn núi có ba trăm sáu mươi am, bảy mươi hai ngôi chùa lớn. Nay, toàn núi chỉ còn lại dưới mười ngôi. Kẻ tu hành cùng người thế tục sống lẫn lộn không phân biệt. Con cháu nối tiếp thừa hưởng sản nghiệp. Đâu đâu cũng thế, không cho khách tăng ở lại trên núi, dầu chỉ trong một thời gian ngắn. Nhớ xưa kia các pháp hội đều hưng thịnh; nay thì thế nhân suy đồi, thật rất đau lòng; tâm muốn trùng hưng lại đạo tràng này, nhưng không biết có đủ cơ duyên chăng!

Từ núi Lương Vương, Cửu Phong, đến huyện Vân Nam, qua núi Thủy Mục, Linh Thứu núi Tử Khê, tới phủ Sở Hùng, trú tại chùa Cao Đỉnh. Lúc vừa mới đến chùa, nghe mùi hương hoa lan bay khắp cả; vị tăng tri sự chúc mừng: "Thượng Tọa đến, vị thần hoa lan phóng ra hương thơm, thật là kỳ diệu. Trong gia phả của phủ viết rằng có vị thần hoa lan, vô hình dạng, nếu có cao tăng chân nhân đến thì phóng tỏa hương thơm. Nay mùi hương hoa lan bay đầy khắp núi, chắc là do âm đức của Thượng Tọa cảm nên vậy."

Sau đó, tôi được tăng tri sự ân cần chiêu đãi, cố giữ ở lại lâu. Vì tôi muốn trở về Hồ Nam gấp nên khước từ lời mời, chỉ ở lại qua một đêm rồi đi ngay. Đến phủ Côn Minh, phủ Khúc Tỉnh, phủ Quí Châu, Bình Tệ. Thuận đường đi về hướng đông, qua Quí Dương, Trấn Viễn, vào Ma Dương, Chỉ Giang hướng tây của Hồ Nam, đến phủ Bảo Khánh, băng Hành Dương, thăm hòa thượng Hằng Chí tại núi Kì Sơn. Ở lại đây mười ngày rồi tiếp tục đi về phương bắc. Đến Võ Xương, Hồ Bắc, lễ hòa thượng Chí Ma tại chùa Bảo Thông; học đại bi sám pháp tại chùa xong, liền đi Cửu Giang, vào Lô Sơn, lễ hòa thượng Chí Thiện tại chùa Hải Hội; tham gia pháp hội niệm Phật. Sau đó, ghé tỉnh An Huy, thăm núi Hoàng Sơn, tới núi Cửu Hoa lễ tháp Địa Tạng Bồ Tát. Đến cung Bá Niên, lễ Bảo Ngộ hòa thượng. Ngài là một vị đại lão hòa thượng, giới hạnh tinh nghiêm, định lực bậc nhất. Băng qua sông, đến núi Bảo Hoa, lễ hòa thượng Thánh Tánh; lưu trú lại đây qua năm mới.

Trong hai năm, thân hành vạn lý, mọi thời đều đi bộ, chỉ trừ những lúc dùng thuyền vượt biển. Trèo núi băng sông, tuyết sương mưa gió, núi cao đồng vắng, chim thú lạ lùng, phong cảnh thay đổi ngày ngày. Tâm tịnh như trăng tròn lơ lững; thể lực tăng cường, bước đi lẹ làng, không thấy mệt nhọc, chỉ nhớ lại những tội phóng dật của mình lúc trước.

Người xưa bảo rằng đọc xong mười ngàn quuyển sách, phải nên đi mười ngàn dặm. Thật rất đúng!

Quang Tự năm thứ 16, 51 tuổi. (1890/91)

Đến Nghi Hưng, lễ hòa thượng Nhân Trí, đang tu tại chùa Hiển Thân, là nơi xuất gia của Mật Tổ. Tôi ở đây qua mùa hè. Sau đó đến Cú Dong lễ hòa thượng Pháp Nhẫn. Tại đây tôi giúp ngài sửa chữa chùa Xích Sơn và ở qua mùa đông.

Quang Tự năm thứ 17, 52 tuổi. (1891/92)

Tại Kim Lăng giúp thượng nhân Tùng Nghiêm sửa chùa Tịnh Thành. Lúc bấy giờ, thường qua lại với cư sĩ Dương Nhân Sơn tham cứu luận Nhân Minh, luận Bát Nhã Đăng. Ở qua mùa đông tại chùa Tịnh Thành.

Quang Tự năm thứ 18, 53 tuổi. (1892/93)

Cùng các thầy Phổ Chiếu, Nguyệt Hà, Ần Liên lên núi Cửu Hoa sửa am tranh Thúy Phong để ở. Thầy Phổ Chiếu chủ giảng năm phần giáo nghĩa của kinh Hoa Nghiêm. Tông Hiền Thủ đã bị quên lãng rất lâu, nay nghe có giảng giáo nghĩa, chư tăng các xứ đến dự rất đông. Giáo nghĩa tông Hiền Thủ nay khởi dậy nơi miền xuôi sông Giang Hạ.

Quang Tự năm thứ 19, 54 tuổi. (1893/94)

Tôi vẫn ở tại am Thúy Phong nghiên cứu kinh điển. Mùa hè có pháp sư Đế Nhàn đến cùng an cư kiết hạ. Sau đó qua chùa Kim Sơn ở qua mùa đông.

Quang Tự năm thứ 20, 56 tuổi. (1895/96)

Hòa thượng trụ trì chùa Cao Mân tại Dương Châu đến núi Cửu Hoa, bảo: "Năm nay tại chùa Cao Mân có thí chủ họ Chu thỉnh các thầy làm pháp sự. Ông ta sẽ cúng dường và hộ trì chư tăng nhập thiền thất trong mười hai tuần tính luôn bốn tuần hiện tại. Lão hòa thượng Xích Sơn đã trở về chùa. Ngài ngưỡng mong chư vị trở về hộ trì thường trụ."

Khi kỳ thiền thất sắp đến, chúng tăng thúc dục tôi xuống núi trước. Khi vừa tới cảng Địch Câu, thuộc Đại Thông, tôi đi dọc theo bờ sông, gặp lúc nước lớn, muốn qua sông; người lái đò đòi trả sáu đồng, nhưng vì tôi không có đồng xu nào, nên ông chèo ghe bỏ đi. Vì vậy, tôi vẫn tiếp tục men theo bờ sông mà đi. Lại vì không cẩn thận nên hụt chân té xuống sông, bị trôi chìm cả một ngày đêm, đưa dạt đến vùng phụ cận của bến đá Thải Thạch. Ngư dân kéo lưới dính tôi, nên gọi một vị thầy chùa Bảo Tích đến nhận. Thầy ấy xưa kia có cùng tôi ở tại chùa Xích Sơn. Thầy hoảng hốt, bảo: "Đây là thầy Đức Thanh."

Sau đó tôi được khiêng về chùa và cứu sống lại. Khi ấy là ngày hai mươi tám tháng sáu. Máu từ miệng mũi, đại tiểu tiện chảy ra. Tôi ở lại đó vài ngày rồi vội đi đến chùa Cao Mân. Vị tăng tri sự thấy tôi gầy ốm nên hỏi: "Ngài có bịnh hoạn gì không?"

Đáp: "Không."

Lại yết kiến hòa thượng Nguyệt Lãng; hỏi han chuyện trên núi xong, liền mời tôi tạm thay mặt Ngài làm thiện tri thức cho chúng tăng trong những kỳ thiền thất sắp tới. Tôi lễ phép từ chối, lại không dám nói chuyện bị té xuống sông, chỉ cầu mong được đả thiền thất trong thiền đường. Gia phong chùa Cao Mân nghiêm ngặt; nếu được mời làm tăng chức sự mà cự tuyệt không nhận thì bị tội khinh tăng chúng của chùa. Như vậy, tôi bị phạm luật nên phải chịu ăn đòn. Tôi thuận chịu mà không nói chi. Bị đánh xong thì bịnh lại gia tăng thêm, máu chảy không ngừng, chỉ chờ chết. Trong thiền đường, ngày đêm tinh tấn, nhất niệm lắng trong, không biết thân là vật gì cả! Qua hơn hai mươi ngày, bịnh hoạn đều hết. Thầy Đức Ngạn trụ trì chùa Bảo Tích gần bến đá Thải Thạch đem y vật đến cúng dường, thấy mặt tôi sáng sủa, rất vui mừng. Lại kể việc tôi bị té sông cho đại chúng nghe; ai ai cũng khâm phục tán thán. Vị tăng nội thức trong thiền đường không còn bảo tôi luân trực nữa, nên tu hành dễ dàng. Từ đó muôn niệm đều dừng, công phu ngày đêm như một, hành động lẹ làng như gió. Tối nọ, khi cây hương thiền thất vừa đốt lên, tôi mở mắt ra, nhìn thấy mọi vật hiện như lúc ban ngày, trong ngoài đều rõ ràng. Cách tường đá thấy thầy hương đăng đang tiểu tiện, lại thấy thầy tri khách đang trong nhà cầu; xa nữa thấy một chiếc ghe đang chạy trên sông. Màu sắc hình dạng của hàng cây hai bên bờ sông đều thấy rõ. Lúc ấy là khuya canh ba. Hôm sau, hỏi thầy hương đăng cùng thầy tri khách thì quả thật đúng như việc tôi đã thấy đêm qua. Tôi biết đây là cảnh giới của thiền nên không cho là kỳ dị. Đến ngày thứ ba của tuần thiền thất thứ tám, lúc đốt cây nhang khai tỉnh thứ sáu, theo lệ thường, thầy hộ thất rót trà cho chư tăng trong thiền thất dùng. Khi đưa tách trà cho tôi, vì sơ ý, ly nước bị rớt xuống đất. Vừa nghe tiếng ly nước bể, căn nghi liền bặt dứt, tâm chợt ngộ đạo như vừa tỉnh giấc mơ. Nhớ lại vài mươi năm trước, nơi sông Hoàng Hà bị một gã tục hán hỏi mà không biết nước là gì. Nếu lúc đó, đạp nồi đất, thử xem Văn Cát còn nói gì nữa không!

Hôm nay, nếu không bị té sông bịnh nặng, không nhẫn cảnh nghịch cảnh thuận, không nghe sự giáo hóa của tri thức, chắc luổng phí một đời. Vì thế, viết kệ:

"Bối tử phát lạc địa,

Hưởng thanh minh lịch lịch.

Hư không phấn toái dã.

Cuồng tâm đương hạ hưu.

Năng khán thủ, đả phấn toái,

Gia phá nhân vọng ngữ nan khai.

Xuân chí hoa hương xú xứ tú.

Sơn hà đại địa thị Như Lai."

Dịch:

"Cốc nước rơi xuống đất,

Tiếng vang thật rõ ràng,

Hư không tan thành bụi,

Tâm cuồng liền thôi dứt,

Tay thả lỏng, cốc nước rơi,

Nhà tan người mất thật khó nói,

Xuân đến hoa hương nơi nơi đều nở rộ,

Núi sông đất rộng là Như Lai."

(Đại sự trong năm: Thành lập hòa ước Mã Quan, cắt Đài Loan cùng Liễu Đông Bán Đảo cho Nhật Bổn. Nga Anh Pháp khuyên Nhật Bổn trở lại Liêu Đông Bán Đảo)

Quang Tự năm thứ 22, 57 tuổi. (1896/97)

Mùa hạ, tôi đến chùa Kim Sơn tại Trấn Giang an cư kiết hạ. Lão hòa thượng Đại Định giữ tôi lại qua đông.

Quang Tự năm thứ 23, 58 tuổi. (1897/98)

Từ chùa Kim Sơn, tôi qua núi Lang Sơn lễ bái đạo tràng Bồ Tát Đại Thế Chí. Xong, liền trở lại chùa, gặp hòa thượng Đạo Minh mời tôi đến Dương Châu làm trợ lý cho chùa Trọng Ninh. Tháng tư, pháp sư Thông Trí giảng kinh Lăng Nghiêm tại Tiêu Sơn, thính chúng ngàn người. Ngài bảo tôi phụ giảng. Giảng kinh xong, từ biệt đại chúng xuống núi.

Tôi được sanh ra mà không gặp mẹ, chưa từng thấy dung mạo bà. Lúc còn ở nhà có thấy hình thờ. Mỗi lần nhớ đến thì tâm cang liền đau nhức. Xưa kia có nguyện rằng sẽ đến chùa A Dục Vương lễ xá lợi của Phật, rồi đốt ngón tay cúng Phật, cầu siêu độ mẹ hiền. Thế nên tôi đi Ninh Ba. Bấy giờ có pháp sư Huyễn Nhân cùng hòa thượng Kỳ Thiền (tức thiền sư có tám ngón tay, hành hạnh đầu đà) đang trông coi chùa Thiên Đồng, hòa thượng Hải Ngạn đang tu chỉnh lại gia phả Dục Vương Sơn Chí, đều mời tôi phụ giúp. Nhưng vì nguyện mới đến đấy, nên tôi lễ phép từ chối.

Tôi lễ xá lợi từ sáng sớm canh ba đến chiều tối; trừ khi ở ngoài điện đường, không dùng bồ đoàn, tọa cụ. Mỗi ngày lễ ba ngàn lạy. Tối nọ, đang lúc ngồi thiền nhập định, như mộng mà không phải mộng, thấy trên không có một con rồng vàng, bay vào điện xá lợi trước hồ Thiên Trì, thân dài cả mấy mươi thước, sắc vàng chiếu sáng. Tôi leo lên lưng, rồng liền bay đến một nơi núi sông hùng vĩ, cây cỏ hoa trái xanh xanh u mịt, lâu các cung điện, trang nghiêm kỳ diệu. Thấy mẹ mình đang đứng trên lầu các xem cảnh, liền gọi: "Mẹ ơi! Thỉnh mẹ lên lưng rồng. Rồng sẽ đưa mẹ qua cõi Tây Phương."

Rồng lập tức bay xuống. Ngay lúc ấy liền giật mình tỉnh giấc. Thân tâm cảm giác thanh tịnh trong sáng, cảnh giới rõ ràng. Đây là lần thứ nhất mộng thấy mẹ mình. Từ đó, mỗi ngày nếu có người đến xem xá lợi, tôi đều tham gia. Cách nhìn xá lợi của mỗi người đều khác biệt nhau. Tôi được xem nhiều lần. Ban đầu thấy hạt xá lợi lớn như hạt đậu, màu tím đen. Giữa tháng mười, sau khi lễ lạy hai đại tạng kinh Nguyên Thủy và Đại Thừa xong, lại xem lần nữa, thấy hạt cũng lớn như lần đầu, nhưng biến thành hạt châu màu đỏ. Tôi lễ lạy thêm nữa. Vì gấp rút cầu chứng nghiệm nên toàn thân đều đau nhức. Xem lần nữa, thấy hạt lớn hơn hạt đậu vàng, màu sắc nửa trắng nửa vàng. Đến lúc ấy, tin chắc rằng hạt xá lợi tùy theo căn tánh của mỗi người mà hiện. Lại gấp muốn cầu chứng nghiệm, gia tăng lễ bái. Đầu tháng mười một, chợt bị bịnh nặng, không thể lễ bái. Được đại chúng đưa đến ở tại hậu liêu Như Ý, nằm trên võng mà uống thuốc, không thể ngồi dậy. Bấy giờ, thầy thủ tọa Hiển Thân, thầy giám viện Tông Lượng, cô cư sĩ họ Lô, cùng chư vị khác tìm mọi phương thuốc để cứu trị cho tôi, nhưng chỉ phí tiền mệt sức, không thấy thuyên giảm chút nào. Đại chúng đều cho rằng duyên đời của tôi đến đây là hết. Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng ngặt vì lời nguyện đốt ngón tay cúng Phật chưa thành, nên tâm sanh khổ não. Đến ngày mười sáu, có tám vị khách tăng vào lều thăm, nghĩ là bịnh tình của tôi không nặng cho lắm, nên định giúp tôi đốt ngón tay cúng Phật. Tôi nghe thế, biết rằng ngày may sẽ bắt đầu nên kiên trì thỉnh cầu tham gia, nhưng chư thủ tọa cùng các vị thầy khác không tán thành, sợ nguy hiểm đến tánh mạng. Tự dưng nước mắt tôi cứ tuôn trào như suối mà thưa: "Có ai tránh khỏi chết sống đâu. Vì muốn báo đáp ân mẹ hiền nên phát nguyện đốt ngón tay cúng Phật. Không thể vì bịnh mà ngưng. Nếu không, sống có ích lợi chi? Tôi sẵn sàng đón nhận cái chết!"

Giám viện Tông Lượng (lúc ấy chỉ mới hai mươi mốt tuổi) nghe thế cũng rơi lệ, nói: "Ngài chớ lo phiền. Tôi sẽ hộ trợ Ngài thành tựu nguyện lực. Ngày mai tôi sẽ lo tế trai và chuẩn bị mọi việc để giúp Ngài."

Tôi chấp tay cảm tạ.

Sáng ngày mười bảy, giám viện Tông Lượng mời sư đệ của thầy là Tông Tín hộ giúp tôi đốt ngón tay. Nhiều người luân phiên lên chánh điện phụ giúp lễ Phật. Sau khi tụng qua các nghi lễ, đến lúc đại chúng niệm văn sám hối, tôi nhất tâm niệm Phật, siêu độ mẹ hiền. Lúc đầu cảm giác toàn thân rất đau nhức. Kế đến, tâm từ từ thanh tịnh lắng trong; cuối cùng tri giác trong sáng. Vừa niệm đến câu Pháp giới tạng thân A Di Đà Phật, thì toàn thân tám mươi ngàn sợi lông đều dựng đứng. Sau khi đốt ngón tay xong, tôi tự đứng dậy lễ Phật, không nhờ người đỡ, lúc bấy giờ không biết thân mình đang mang bịnh, tự đi đến lễ tạ đại chúng. Trở về hậu liêu, cảm thán việc hy hữu này. Hôm đó dời ra khỏi hậu liêu Như Ý. Hôm sau, ngâm ngón tay bị thương vào nước muối cả ngày, không còn bị chảy máu nữa. Vài ngày kế, da thịt liền lại, từ từ lễ bái như thường.

Tôi trú tại chùa A Dục Vương qua năm mới.

(Phụ chú: Tên chùa, xưa là Quảng Lợi, sau lại đổi ra A Dục Vương, phía nam huyện Ninh Ba làng Nam Hương. Xưa, sau khi Phật diệt độ khoảng hai trăm năm, có vua A Dục trị vì tại trung Thiên Trúc, Ần Độ, phân xá lợi của Phật ra làm tám mươi bốn ngàn viên, để thờ trong bảo tháp. Sai khiến quỷ thần đem chôn nhiều chỗ. Về phía đông Ần Độ, tức nước Trung Hoa, có mười chín chỗ, lần lần xuất hiện, như núi Ngũ Đài và chùa A Dục Vương. Trong núi Ngũ Đài, có tháp xá lợi rất lớn nhưng khó mà thấy được. Đời vua Tấn Võ Đế niên hiệu Thái Khang năm thứ ba (282-3 AD), khi thiền sư Huệ Đạt lễ bái thỉnh cầu xá lợi Phật, thì từ dưới đất, xá lợi Phật liền vọt lên. Sau đó, một ngôi chùa được kiến lập lấy tên là A Dục Vương, còn xá lợi thì được để trong tháp đá. Cửa tháp thường đóng, nếu muốn ngắm xem xá lợi thì đầu tiên phải cho vị tháp chủ biết. Vào chánh điện lễ Phật xong, ra ngoài điện quì trên thềm đá; người muốn ngắm xem thì phải y theo thứ tự mà quì. Tháp chủ thỉnh tháp xá lợi ra. Tháp cao một thước bốn tấc, rộng khoảng trên một thước. Ở giữa tháp có treo một chuông thật tâm trong đó có một cây kim. Xá lợi đặt kế cây kim đó. Người ngắm xem, thấy hạt xá lợi lớn nhỏ, nhiều ít không đồng. Bình thường thì thấy một hạt hoặc ba hạt, màu xanh vàng đỏ trắng. Nếu thấy hoa sen cùng tượng Phật đó là người có duyên thù thắng với đạo. Đời nhà Minh, niên hiệu Vạn Lịch có giám quan sử bộ là Lục Quang Tổ cùng thân hữu đến xem. Mới đầu thấy như hạt đậu nhỏ, kế đến thấy như hạt đậu lớn, kế thấy như trái chà là, quả dưa hấu, rồi lại như bánh xe lớn, quang minh chiếu sáng, khiến thân tâm thanh tịnh trong sáng. Lúc bấy giờ điện xá lợi bị hư hại, Lục Quang Tổ phát tâm sửa chữa, trang nghiêm cho đến ngày nay. Đấng Như Lai vì lòng đại bi nên lưu lại pháp thân chân thể, để chúng sanh đời vị lai sinh tâm chánh tín.)

(Đại sụ trong năm: Đức thuê vịnh Giao Châu. Vua Triều Tiên xưng Hoàng Đế Đại Hán)

Quang Tự năm thứ 24, 59 tuổi. (1898/99)

Đầu năm, vẫn trú tại chùa A Dục Vương. Nhân chùa Thất Tháp ở Ninh Ba có đúc một đại hồng chung, hòa thượng Quy Y, hòa thượng Bổn Lai thỉnh pháp sư Mặc Am giảng kinh Pháp Hoa. Chư hòa thượng đến chùa A Dục Vương thỉnh tôi phụ giảng. Thế nên, tôi tới chùa Thất Tháp. Giảng kinh xong, đến núi Đồng Quan, Nghi Hưng kết am tranh ở qua năm mới.

Quang Tự năm thứ 25, 60 tuổi. (1899/00)

Hòa thượng Kết Sâm và Bảo Lâm mời tôi qua Đan Dương trùng tu lại chùa Tiên Thai. Tôi an cư kiết hạ tại đây. Tháng bảy, đến Câu Dong, Giang Tô; hòa thượng Pháp Nhẫn tại Xích Sơn cho phép tôi ở lại am tranh với Ngài.

(Đại sự trong năm: Anh thuê Cửu Long Bán Đảo. Pháp thuê vịnh Quảng Châu)

Quang Tự năm thứ 26, 61 tuổi. (1900/01)

Tôi ở tại hai tỉnh Giang Tô và Triết Giang đã hơn mười năm, lại muốn đi du hành. Mục đích kỳ này là định trở lại lễ bái núi Ngũ Đài, sau đó vào núi Chung Nam ẩn tu. Thế nên, tôi rời Xích Sơn. Đầu tiên đến Trấn Giang Dương Châu, lễ núi Vân Đài. Vào Sơn Đông, đến lễ núi Thái Sơn. Lại thẳng về đông đến Lao Sơn, tới hang Na La Diên, tức chùa Hải Ần của thiền sư Hám Sơn. Trở lại Khúc Phụ, lễ lăng miếu Khổng Tử. Hôm nọ, trên đường đi về hướng tây, ngủ tại một miếu hư, trống không, chỉ có một quan tài, nắp hòm xoay ngược, tưởng không có người, liền leo lên ngủ. Giữa đêm, nghe trong hòm có tiếng kêu: "Tôi muốn đi ra!"

Hỏi: "Ông là người hay là ma?"

Đáp: "Là người."

Hởi: "Ông là người gì?"

Đáp: "Là ăn xin."

Tôi cười thầm, ngồi dậy, cho gã đi ra. Hình dạng gã xấu xí như ma, hỏi tôi là ai.

Đáp: "Là hòa thượng."

Gã nổi xung, bảo rằng tôi leo lên đầu gã mà nằm, nên định đánh. Tôi bảo rằng nằm trên nóc hòm mà không động đậy gì được, hà huống muốn đánh. Gã thấy khí lực yếu, nên bỏ đi, ra ngoài tiểu tiện, rồi lại trèo vào hòm nằm tiếp. Trời vừa hừng sáng, tôi rời chỗ ấy.

Bấy giờ, quân Nghĩa Hòa Đoàn tại các huyện thuộc tỉnh Sơn Đông đang khởi loạn. Ngày nọ, trên đường, gặp một gã lính lê dương, lấy súng chỉ thẳng vào người tôi rồi hỏi: "Có sợ chết không?"

Đáp: "Nếu phải chết trên tay ông, thì cứ bắn đi!"

Gã lính thấy thần sắc của tôi không đổi nên nói: "Tốt lắm, ông đi đi."

Tôi vội đi Ngũ Đài. Hành hương xong, muốn qua núi Chung Nam. Vì đao binh ngày càng loạn lạc, tôi lại trở về Bắc Kinh, qua chùa Tây Thành, lễ kinh Thạch Tạng. Tại núi Đàm Tạng, gặp một vị du tăng kỳ dị. Sau đó, đến chùa Giới Đài lễ tháp thiền sư Phi Bát. Nơi núi Hồng Loa tham gia đạo tràng niệm Phật. Qua chùa Đại Chung xem chuông đồng được Dao Quảng Hiếu đúc. Chuông nặng 87.000 cân, cao mười lăm thước, rộng mười bốn thước, trên đỉnh cao bảy thước; bên ngoài khắc một bản kinh Hoa Nghiêm; bên trong khắc một bản kinh Pháp Hoa; kinh Kim Cang được khắc nơi vòng biên của chuông; trên đỉnh có khắc chú Lăng Nghiêm. Chuông này do vua Vĩnh Lạc đời nhà Minh đúc cúng dường để cầu nguyện cho mẹ ông siêu sanh.

Tôi trở lại phía nam của thành, trú tại chùa Long Tuyền.

Tháng năm, loạn quân Nghĩa Hòa Đoàn ngày một tăng, lấy lời hiệu triệu "Phù Thanh Diệt Dương", giết thư ký của sứ quán Nhật cùng công sứ của nước Đức, do Hoàng Thái Hậu âm mưu. Đến ngày mười bảy tháng bảy, Hoàng Đế hạ chiếu cùng liên quân các nước tuyên chiến. Đại loạn trong thành Bắc Kinh. Lúc ấy, các vương công đại quan, những vị đã từng trú ngụ tại chùa Long Tuyền, đều khuyên tôi nên cùng họ hộ giá đi về miền tây. Trong cơn binh hoang ngựa loạn, không còn sự oai nghi lẫm lẫm của một vị Thiên Tử như lúc bình thường. Ngày đêm ruỗi chạy, gian khổ muôn vàn. Tới huyện Phụ Bình, đoàn hộ giá nghe tin tướng Cam Phiên, Sầm Xuân Tuyên dẫn quân đến hộ giá vượt Vạn Lý Trường Thành. Hoàng Đế cùng Thái Hậu rất vui mừng. Đoàn hộ giá vào huyện Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Nơi đây có chùa Vân Môn, do một vị lão tăng, trên một trăm hai mươi bốn tuổi, trụ trì. Hoàng Đế ban lụa vàng cho vị lão tăng và sai người sửa chữa phòng ốc trong chùa. Đoàn hộ giá lại đi về hướng tây, đến Bình Dương, vùng đất biên địa hoang vu. Nhân dân trong vùng dâng khoai rừng cho Hoàng Đế. Vì đang đói khát nên Hoàng Đế và Thái Hậu ăn rất ngon lành. Đến Tây An, Hoàng Đế trú tại dinh phủ. Nơi đó, dân chúng hiện đang đói rách khổ sở, có người dám ăn cả thây chết. Hoàng Đế liền ra lệnh cấm việc này và dựng tám lều vải nơi phía tây của thành để phân phát thức ăn cho dân nghèo. Tại các thôn xóm lân cận, cũng chẩn tế cứu giúp dân nghèo như thế. Tướng Sầm Xuân Tuyên thỉnh tôi đến chùa Ngọa Long lập đàn tràng cho pháp hội tiêu tai giải nạn. Làm Phật sự xong, lão hòa thượng Đông Hà mời tôi trú tại chùa Ngọa Long. Thấy đoàn hộ giá ngày càng có nhiều việc phiền rộn, nên tôi lặng lẽ bỏ đi.

Tháng mười, tôi lên núi Chung Nam kết am tu hành. Đằng sau ngọn Gia Ngũ Đài tôi tìm được động Sư Tử. Vùng này yên tĩnh, không bị bên ngoài làm phiền muộn. Nơi đây, tôi đổi tên lấy hiệu là Hư Vân mãi về sau.

Núi thiếu nước nên tôi nấu tuyết ra để uống, trồng vài loại rau dại để dùng. Lúc bấy giờ, trên núi có thầy Bổn Xương trú tại núi Phá Thạch, thầy Diệu Liên trú tại miếu Quan Đế, thầy Đạo Minh trú tại động Ngũ Hoa, thầy Diệu Viên trú trong một am tranh cũ, thầy Thanh Sơn trú tại sau núi. Thầy Thanh Sơn là người Hồ Nam, được tăng chúng trên núi tôn kính hơn hết. Tôi thường qua lại với thầy vì ở gần bên cạnh.

Tháng tám, ba thầy, Phục Thành, Nguyệt Hà, Liễu Trần đến am, gặp tôi liền nói: "Bao năm tháng không biết tin tức, ai ngờ được Thầy đang ngủ ở đây!"

Tôi đáp: "Hãy gác chuyện nầy lại, vậy chứ miền dưới hiện nay như thế nào?"

Sau đó chúng tôi đảnh lễ lẫn nhau, rồi cùng ăn khoai rừng. Xong, tôi dẫn các thầy đến núi Phá Thạch. Lão pháp sư Nguyệt Hà nói: "Lão nhân Pháp Nhẫn núi Xích Sơn rất ưu phiền vì hoàn cảnh xung quanh. Hiện tại, Ngài đang giảng kinh Pháp Hoa tại chùa Qui Nguyên, Hán Dương; vì muốn ra đất bắc, mới nhờ tôi đi trước, tìm chỗ."

Thầy Nguyệt Hà lại mời tôi cùng đi tìm đất. Vì đang tu tập thiền định nên tôi khước từ lời mời. Vừa nhập một thiền thất xong thì các thầy Hóa Thành, Dẫn Nguyệt, Phục Giới v.v... tìm được đất tại núi Thúy Vi trở về. Thầy Nguyệt Hà hỏi tôi xem có ý kiến chi. Tôi đáp: "Đất ấy, bắc hướng Bạch Hổ, Thái Bạch, phía sau lại không có núi để tựa. Vậy, không phải là đất lành."

Các thầy không nghe lời bàn của tôi nên sau này phải chiêu lấy hậu quả.

Đông đến, lão nhân Thanh Sơn nhờ tôi đi Trường An mua đồ. Mua xong, trên đường trở về núi gặp lúc tuyết rơi dữ dội. Vừa trèo lên núi để về am tranh thì tôi bị trợt chân xuống vũng tuyết sâu dưới chân núi. Tôi kêu cầu cứu. Thượng nhân Nhất Toàn ở bên cạnh am đến cứu. Y phục trong ngoài đều bị ướt. Trời cũng vừa chập tối. Biết hôm sau tuyết sẽ rơi đầy khắp nơi, lấp mất đường lộ, nên tôi dò dẫn lối đi trong tuyết lạnh, để trở về am tranh, rồi đến chỗ thầy Thanh Sơn. Thấy hình dáng xốc xếch, thầy cười và bảo rằng tôi chẳng làm nên tích sự gì. Tôi chỉ gật đầu rồi trở về am mình trú qua năm.

Quang Tự năm thứ 27, 62 tuổi. (1901/02)

Tôi vẫn ở tại am tu thiền trong mùa xuân và hạ. Lão nhân Pháp Nhẫn từ Xìch Sơn đến đất Thiểm Tây, kết am tại núi Thúy Vi, cùng với hơn sáu mươi vị. Phân nửa trú tại chùa Hoàng Dụ. Phân nửa trú tại am tranh mới cất và chùa Hưng Thiện. Khi đó, tướng họ Tô đang khai khẩn đất hoang ở miền bắc. Ông lấy ấp Bá Than, rộng khoảng một trăm mẫu cấp cho tăng chúng núi Thúy Vi, trồng trọt sinh sống tu hành. Người địa phương không chấp thuận. Họ bảo nơi đó là đất tổ tiên trú ngụ bao đời, không thể cắt ruộng xẻ đất cho ai. Chư tăng không khứng chịu. Thế nên, việc này phải đem ra tòa xử lý. Chư tăng thua kiện. Lão pháp sư Pháp Nhẫn rất bực tức, nên năm sau trở về Nam, và đem tất cả pháp khí, vật dụng trả lại cho thầy Thể An, Nguyệt Hà. Bốn chúng sau đó phân tán. Mỗi lần nhớ đến chuyện rắc rối này, nhận thấy là chớ cậy chút uy quyền mà kết cuộc phải mang lấy tai họa. Từ đó, chư tăng từ miền nam lên đất bắc đều bị ít nhiều tai tiếng. Vì thế, không thể coi thường hình thể núi sông mà cho là không quan hệ đến việc tu hành.

Gần cuối năm, núi non đều đóng tuyết, hang sâu khí lạnh buốt xương. Một mình tôi đơn độc tu trì trong am tranh, thân tâm thanh tịnh. Ngày nọ, sau khi bỏ khoai vào nồi, tôi ngồi xếp bằng đợi khoai chín, tự nhiên nhập định.

Quang Tự, năm thứ 28, 63 tuổi. (1902/03)

Qua năm mới, tôi nhập định không biết ngày giờ. Trên núi, gần am có các thầy như Phục Thành v.v..., lấy làm lạ vì sao đã lâu mà tôi chưa tới, nên đến am chúc mừng năm mới cùng tặng quà cáp. Họ thấy ngoài am đầy dấu chân hổ, mà chẳng thấy dấu chân người. Họ đi vào, nhìn kỹ, thấy tôi đang nhập định, liền đánh khánh khiến xả định.

Các thầy hỏi: "Thầy đã ăn cơm chưa?"

Tôi đáp: "Thưa chưa! Khoai vẫn còn trong nồi, chắc đã chín rồi."

Mở nắp nồi ra, thấy mốc đầy cả tấc, nước đóng cứng như đá. Thầy Phục Thành chúc mừng nói: "Nhất định là thầy đã nhập định hơn nữa tháng rồi!"

Sau đó, họ cùng tôi đun tuyết, nấu khoai. Ắn khoai xong họ liền từ giã. Vài ngày kế, sau khi thầy Phục Thành rời am, chư tăng kẻ tục xa gần đến thăm. Chán việc khách chủ đối đáp, tôi lặng lẽ mang hành lý bỏ đi trong đêm tối, hướng về muôn dặm nơi không có một tấc cỏ. Đầu tiên, tôi đến núi Thái Bạch, ẩn cư trong hang sâu núi thẩm. Chẳng bao lâu, thầy Giới Trần theo vết chân tôi mà tìm đến. Thầy muốn cùng tôi đi xa, mục tiêu là núi Nga Mi. Chúng tôi vượt khẩu Bảo ấp, đến núi Tử Bá, qua Diệu Đài Tử, đến miếu Trương Lương, tới huyện Chiêu Hóa, xem cây bách Trương Phi, đến Thành Đô, tạm dừng chân tại một ngôi chùa nhỏ. Sau đó, chúng tôi từ Gia Định đi thẳng đến núi Nga Mi, leo lên Kim Đảnh, ngắm xem ánh sáng chư Phật. Những ánh sáng này cùng với Phật quang tại núi Kê Túc không khác. Tối lại ngắm xem muôn chùm ánh sáng bay lên bay xuống trên đảnh núi. Những chùm ánh sáng này cũng giống như bao chùm ánh sáng và đèn trí huệ tại núi Ngũ Đài. Chúng tôi đến điện Tích Ngõa lễ lão hòa thượng Chân Ứng, tuổi ngoài bảy mươi, là vị lãnh tụ của toàn núi, cũng là bậc thiện tri thức trong tông môn. Ngài vui vẻ giữ chân chúng tôi lại vài ngày.

Xuống núi, chúng tôi đi quanh hồ Dật Tượng, đến chùa Đại Nga, mộ Trưởng Lão, điện Tỳ Lô, huyện Nga Mi, huyện Hạp Giang, rồi qua Ngân Thôn. Tới sông Lưu Sa, gặp lúc nước lớn, chúng tôi phải đợi đò từ sáng đến trưa. Sau khi mọi người đều lên đò, tôi bảo Giới Trần mang hành lý lên trước. Còn tôi, vừa định lên thì dây neo bị đứt, nhưng kịp bám được mạn đò bằng tay phải. Đò nhỏ mà người đông, nếu nghiêng qua lắc lại chút ít thì cũng đủ bị lật. Thế nên, tôi không động đậy, thân chìm dưới nước, cố bám mạn đò. Chiều đến, đò vừa tấp vào bến thì người trên đò kéo tôi lên. Y phục cùng hai bàn chân đều bị đá lớn đá nhỏ cắt đứt. Trời lạnh mưa tuôn, chúng tôi đi đến ải Sái Kinh. Các quán trọ đều không cho tăng nhân trú ngụ. Chúng tôi lại đi ra ngoài, đến một ngôi chùa chỉ có một tăng trụ trì. Chúng tôi xin tạm trú qua đêm cả ba lần mà thầy kia chẳng cho, lại bảo ra ngoài trước cổng chùa tạm trú dưới bục thềm. Đất ướt, y ướt, nên chúng tôi lấy tiền nhờ thầy kia mua rơm khô để đốt sưởi. Thầy kéo đến hai bó rơm ướt, chẳng đốt được. Chúng tôi chỉ nhẫn nhục lãnh thọ, ngồi dưới đất ướt, kham chịu khí trời lạnh buốt qua đêm. Ngày kế, chúng tôi mua trái cây khô ăn lót lòng rồi tiếp tục tiến bước.

Chúng tôi qua núi Hỏa Nhiên, đến Kiến Xương, phủ Ninh Viễn, tới châu Hội Lý, vào biên giới tỉnh Vân Nam; ghé huyện Vĩnh Bắc, lễ thánh tích Bồ Tát Quán Ấm; vượt sông Kim Sa, thẳng đến núi Kê Túc, ngủ đêm dưới gốc cây, lại nghe trong cửa đá có tiếng chuông mõ vang lên. Ngày kế, lên Kim Đảnh dâng hương lễ bái các chùa. Nghiệm lại đạo tràng Phật Tổ hiện tại suy đồi hoang phế, quy củ của tăng chúng toàn trấn đọa lạc thậm tệ, tôi phát nguyện kết am ở lại núi để tiếp đãi khách hành hương lên núi lễ bái, nhưng con cháu trong các chùa chẳng cho phép. Tâm tư buồn bã, rơi lệ, tôi xuống núi, đến phủ Côn Minh, được cư sĩ hộ pháp Sầm Khoan Từ lưu giữ lại chùa Phúc Hưng. Tôi bế quan nhập thất. Giới Trần làm hộ pháp. Tôi ở trong thất qua năm.

Quang Tự năm thứ 29, 64 tuổi. (1903/04)

Trong khi nhập thất, một vị tăng từ chùa Ngưỡng Dương đến, nói rằng chùa có phóng sanh một con gà trống nặng vài cân. Gà nầy rất dữ tợn. Những con gà khác đều bị nó đá có thương tích. Tôi liền thuyết giới và dạy nó niệm Phật. Chẳng bao lâu, nó không còn cắn đá những con gà khác và ăn bọ trùng nữa. Một mình nó bay lên cây cao, chỉ ăn thực phẩm khi được cho. Lâu sau, những khi nghe tiếng chuông khánh thì nó liền đi theo sau đại chúng lên chánh điện tụng kinh. Khi được dạy niệm Phật, nói liền gáy tiếng như: "Phật, Phật, Phật..."

Hai năm sau, ngày nọ, khi làm lễ công phu chiều xong, nó ngưỡng cổ lên, xòe đôi cánh và vỗ ba lần giống như niệm Phật, rồi đứng thẳng mà chết. Trải qua vài ngày mà thân sắc của nó vẫn không biến đổi. Sau đó, chư tăng để nó vào một thùng kín và hỏa táng.

Quang Tự năm thứ 30, 65 tuổi. (1904/05)

Mùa xuân, chư hộ pháp cùng hòa thượng Khế Mẫn đến khẩn thỉnh tôi ra thất để đến chùa Quy Hóa giảng kinh Viên Giác và kinh Bốn Mươi Hai Chương. Người quy y Tam Bảo tại chùa hơn cả ba ngàn người. Mùa thu, thượng nhân Mộng Phật thỉnh tôi đến chùa Cung Trúc giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm. Tại chùa, tôi hướng dẫn khắc bản gỗ kinh Thủ Lăng Nghiêm cùng các bài thi kệ của đại sư Hàn Sơn. Những bản gỗ khắc nầy được tồn trử tại chùa. Tôi cũng được cung thỉnh truyền giới. Phật sự xong, đề đốc Trương Tùng Lâm, tướng Lý Phúc Hưng cùng quan thân sĩ thứ cung thỉnh tôi đến phủ Đại Lý giảng kinh Pháp Hoa tại chùa Sùng Thánh, Tam Tháp. Người quy y Tam Bảo cả vài ngàn người. Đề đốc Lý Phúc Hưng muốn giữ tôi lại. Tôi đáp: "Tôi không thích trú tại thành phố. Xưa kia, muốn kết am tại núi Kê Túc nhưng con cháu các chùa trên núi không cho. Nay chư vị là hộ pháp, vậy hãy cho tôi một khoảnh đất; nguyện cất am tiếp chúng, cùng cứu vãn tăng chúng toàn trấn, khôi phục đạo tràng của tổ Ca Diếp. Đó là sở nguyện của lão tăng này vậy."

Chư vị hộ pháp đều trả lời là được. Họ lại bảo quan Tri Huyện huyện Tân Châu trợ giúp. Trên núi, tôi tìm được một am thất hư tàn, tên là Bồn Vu, để tạm trú. Trong am không có phòng xá, không lương thực, nhưng tôi vẫn tiếp lễ bốn chúng từ mười phương đến.

Am Bồn Vu được lập từ đời Gia Khánh, nhà Thanh (1796-1820), vốn không có tăng trụ trì vì bên ngoài cửa chùa có một tảng đá, Bạch Hổ. Tôi muốn xây hồ phóng sanh nơi đây, nên thuê người dời tảng đá đó. Đào đất chung quanh tảng đá, nhưng không thấy chân đá. Tảng đá cao chín thước bốn tấc, rộng bảy thước sáu tấc. Đỉnh đá bằng phẳng, có thể ngồi thiền trên đó. Thuê hơn một trăm công nhân để dời tảng đá đó ra xa hai trăm tám mươi thước. Công nhân gắng sức cả ba ngày mà tảng đá vẫn không động đậy. Sau khi tất cả công nhân bó tay bỏ về, tôi tụng đọc kinh chú, cầu nguyện chư thần hộ pháp Già Lam Thánh chúng gia hộ, rồi hướng dẫn hơn mười vị tăng, di chuyển được tảng đá đó qua bên phải cửa chùa. Người đến xem phải kinh ngạc, biết là nhờ thần lực của chư thần hộ pháp gia hộ. Nhân việc lành này, có người đề khắc lên tảng đá: "Vân Di Thạch", tức là tảng đá được di chuyển bởi lão tăng Hư Vân. Quan thân sĩ thứ cũng đề thơ lên tảng đá đó rất nhiều.

Vì muốn trùng tu mái chùa để tiếp hầu tăng tục mười phương, nên tôi phải gấp rút đi quyên góp tịnh tài. Tôi giữ thầy Giới Trần ở lại làm Lương Lý nội vụ, rồi một mình đi thẳng qua Đằng Xung. Từ Hạ Quan đến Vĩnh Xương, qua Hòa Mộc. Cả hơn trăm dặm, đường xá thật rất khó đi. Quan dân xưa nay chưa từng sửa chữa. Tôi nghe người dân địa phương nói: "Có một vị tăng ở tỉnh ngoài đến, tự phát tâm khổ hạnh sửa sang đường xá. Không đi quyên góp, chỉ nhận thức ăn cúng dường của khách qua đường. Như thế đã bao thập niên rồi mà chưa từng thối chuyển. Đường lộ đã được Ngài sửa chữa khoảng chín mươi phần trăm. Người Bố Phiêu nơi đây cảm kích ân đức, muốn sửa lại chùa Khổng Tước Minh Vương lại cho Ngài ở, nhưng Ngài từ chối và cứ tiếp tục sửa đường."

Tôi nghe điều kỳ lạ này, liền đi thẳng đến tìm Ngài. Hoàng hôn vừa xuống, tôi gặp Ngài trên đường, đang mang cuốc xẻng và giỏ rơm, chuẩn bị trở về. Tôi đến trước mặt định hỏi, nhưng Ngài trương mắt nhìn thẳng mà không đáp lời. Tôi cũng không để ý, chỉ cùng theo Ngài đi thẳng về chùa. Ngài bỏ dụng cụ xuống xong, liền đến ngồi trên tấm bồ đoàn mà tọa thiền. Tôi cúi mình đảnh lễ. Ngài chẳng thèm nhìn hay nói năng gì. Tôi cũng ngồi thiền đối diện trước mặt Ngài. Sáng hôm sau, Ngài nấu cơm, tôi thổi lửa. Khi cơm chín, Ngài chẳng thèm kêu mời. Tôi cũng vẫn lấy chén xúc cơm ăn. Ắn xong, Ngài cầm cuốc, tôi mang giỏ, cùng nhau ra đường liệng đá đào đất, trải cát. Cùng làm và nghỉ ngơi như thế cả hơn mười ngày mà chưa từng nói năng một lời nào. Tối nọ, trăng sáng như ban ngày, tôi ngồi thiền trên một tảng đá ngoài sân chùa cho đến khuya. Ngài từ trong chùa bước đến sau lưng tôi mà hô tiếng lớn: "Thầy đang làm gì đây?"

Tôi từ từ mở mắt ra và trả lời: "Thưa, tôi đang ngắm trăng."

Ngài hỏi: "Trăng ở đâu?"

Tôi đáp: "Vừng trăng sáng tuyệt đẹp."

Ngài đáp lại:

"Giữa bao giả huyễn, khó biết chân thật

Chớ nhận cầu vòng làm ánh sáng."

Tôi đáp:

"Xưa nay ánh sáng bao trùm muôn vật

Chẳng bị âm dương tuyệt cách ngăn."

Ngài cười to và nói: "Thôi, trời đã khuya rồi. Chúng ta hãy vào trong nghỉ ngơi."

Hôm sau, Ngài vui mừng bắt đầu tiếp chuyện, cho biết là người Hồ Hương Phiêu tỉnh Hồ Nam, tên là Thiền Tu, xuất gia từ thuở nhỏ. Năm hai mươi bốn tuổi, tại thiền đường chùa Kim Sơn Ngài đã mang tâm về nơi an trú (tâm không còn vọng động). Sau đó, Ngài đi lễ bái các núi trong nước, cho đến cả Tây Tạng, Miến Điện. Từ Miến Điện trở về nước, trên lộ trình thấy đường xá ở đây ghập ghềnh khúc khỉu, người ngựa đi đứng khó khăn, khởi tâm thương xót. Lại nhân cảm đức hạnh xưa của Bồ Tát Trì Địa, nên Ngài phát nguyện một mình ở lại đây để sửa sang đường xá, đã qua bao thập niên. Hiện thời, tuổi ngoài tám mươi ba, chưa từng có tri kỷ, nay được gặp người hữu duyên, thật là vui vẻ.

Tôi cũng thuật lại nhân duyên xuất gia của mình. Ngày kế, sau khi ăn sáng xong, chúng tôi trò chuyện rất vui vẻ, rồi lại chia tay. Tôi đi Đằng Xung để quyên góp tịnh tài. Vừa ghé ngang hội quán Hồ Nam, chưa kịp đặt hành lý xuống để nghỉ ngơi, bỗng đâu có một nhóm người trẻ tuổi đang mặc áo tang đi đến trước tôi, dập đầu lễ bái và thưa: "Chúng con xin cung thỉnh Hòa Thượng đến nhà để tụng kinh!"

Tôi đáp: "Tôi không phải là ông thầy tụng kinh đám!"

Họ thưa: "Xin Hòa Thượng vì chúng con mà tụng kinh."

Tôi đáp: "Chẳng lẽ, chư vị không biết có thầy nào trong vùng này thường đi tụng kinh đám sao?"

Người chủ hội quán liền thay mặt họ mà trần thuật sự việc như sau: "Xin thỉnh Đại Sư đi tụng kinh cho nhà họ, vì việc này xảy ra rất lạ lùng, hiếm có. Những người này là con cháu của quan Thái Sử họ Ngô. Lúc Thái Sử còn sống, ông tu trì rất cẩn mật, được người địa phương xưng là vị Thiện Nhân. Lão thái bá họ Ngô, tuổi thọ hơn tám mươi, con cháu được vài mươi người, mà trong đó có vài vị là bậc khoa bảng, tiến sĩ. Trước ngày mất, Thái Sử họ Ngô tự nói mình là tăng nhân, nên trong di chúc có nói là phải được tẩm liệm với y phục của người xuất gia, không cho gia quyến khóc lóc, giết hại loài vật, hay mời thầy cúng đến tụng kinh, và bảo rằng mai đây sẽ có một vị cao tăng đến tụng kinh siêu độ cho ông. Sau đó, ông ngồi xếp bằng mà mất. Qua vài ngày, nét mặt vẫn còn tươi tỉnh như lúc còn sống. Nay Đại Sư đến, có phải đây là duyên pháp chăng?"

Nghe xong, tôi nhận lời đến nhà họ tụng kinh siêu độ cùng phóng sanh, bố thí, trong bảy ngày. Các quan dân sĩ thứ trong xã ấp đều vui mừng hoan hỉ. Người thọ giới quy y hơn cả ngàn người. Quan thân sĩ thứ muốn giữ tôi ở lại Đằng Xung. Tôi đáp: "Tôi muốn tu sửa lại núi Kê Túc mới đến đây hóa duyên, nên không thể ở lại được."

Nghe thế, mọi người đều vui vẻ đóng góp cúng dường rất thâm hậu. Tôi mang số tiền này trở về núi Kê Túc, xây dựng phòng xá, thiền đường, giảng đường, cùng chấn chỉnh luật nghi, lập ra quy củ, ban truyền giới pháp. Năm ấy, bốn chúng đến cầu thọ giới hơn bảy trăm vị. Những chùa chiền trên núi cũng thay đổi theo quy củ từ từ. Họ mặc tăng y, cạo râu tóc, ăn chay trở lại.

(Đại sự trong năm: Nhật-Nga tuyên chiến. Trung Quốc tuyên bố trung lập.)

Quang Tự năm 31, 66 tuổi. (1905/06)

Mùa xuân, lão hòa thượng Bảo Lâm tại chùa Thạch Chung thỉnh tôi đến chùa truyền giới. Cầu giới có hơn tám trăm người. Phật sự xong, tôi qua Nam Dương hoằng pháp. Giới Trần bế quan nhập thất tại am Bồn Vu. Khi đến chùa Thái Bình tại Nam Điện, tỉnh Vân Nam, tôi giảng kinh A Di Đà. Giảng xong, vài trăm người thọ giới quy y. Sau đó, theo những vách núi cheo leo, Thiên Nhai, tôi vượt qua núi Dã Nhân, đến Tân Nhai, Ngõa Thành. Vì vùng núi Dã Nhân là nơi thâm sơn chướng độc, nên tôi bị cảm bệnh rất nặng. Tôi trú trong những chòi lá ven đường. Thân thể ngày đêm nóng rực. Tuy bịnh nặng, tôi vẫn cố gượng đi đến chùa Quán Ấm tại Liễu Động. Trong chùa có một thầy người Hoa, tên là Định Như. Tôi lễ bái, nhưng thầy chẳng thèm nhìn. Tôi lên chánh điện tọa thiền. Đến tối, trên chánh điện, lúc thầy đánh khánh, tôi giúp đánh chuông trống. Sau khi đọc văn sám hối, thầy xướng: "Giết, giết, giết", rồi lạy ba lạy. Hôm sau, lên chánh điện, tụng kinh xong, thầy cũng xuớng lên chữ giết và lạy ba lần như trưóc. Tôi lấy làm lạ nên cố nán lại để quan sát thêm. Thức ăn của thầy vào buổi sáng trưa chiều tối đều có hành tỏi. Tôi không ăn, cũng không nói lời nào, chỉ uống nước. Thầy biết lý do vì sao tôi không ăn cơm nên bảo người trong chùa nấu thức ăn nhưng không bỏ hành tỏi. Khi ấy, tôi mới ăn được. Đến ngày thứ bảy, thầy mời tôi uống trà. Tôi liền hỏi việc thầy xướng lên ba câu giết rồi lạy ba lạy là nghĩa gì. Thầy đáp: "Giết những con quỷ da trắng! Quê quán tôi tại Bảo Khánh, tỉnh Hồ Nam. Cha là quan võ tại thị trấn đó, nhưng đã qua đời. Vì vậy, tôi đi tu, thọ pháp tại núi Phổ Đà, theo hòa thượng Trúc Thiền học đạo. Hơn mười năm trước, lúc từ Hồng Kông trở về Tinh Châu, tôi bị người da trắng ngược đãi trên tàu, không thể nhẫn nhịn được, thực hận đến chết chẳng nguôi. Nay, tôi vẽ tranh nơi đây, có rất nhiều người thích đến mua, nên sinh sống không sợ thiếu thốn. Cả hơn mười năm, tăng nhân đi ngang qua đây, thường làm bộ làm dạng, tánh khí kỳ quái, không ai được như Ngài, viên dung vô ngại, nên nay mới nói ra những lời thành thật."

Tôi khuyên thầy ấy rằng nên xem oán thân đều bình đẳng, nhưng uất khí của thầy vẫn chưa tiêu nổi.

Bịnh của tôi từ từ giảm bớt nên liền cáo từ, nhưng thầy cố giữ tôi ở lại. Tôi kể lại việc đi quyên tịnh tài để xây chùa. Thầy liền cúng dường tiền lộ phí, lương thực, mua vé xe lửa cùng đánh điện tín qua Ngưỡng Quang, báo tin cho cư sĩ Cao Vạn Bang biết trước để ông ta ra ga xe lửa đón tôi. Sau đó, tôi ân cần cáo biệt. Tôi đến Ngưỡng Quang; toàn gia đình họ Cao cùng Tánh Nguyên, giám viện chùa Long Tuyền ra đón tiếp. Tôi ở lại nhà cư sĩ họ Cao, được tiếp đãi ân cần. Cư sĩ nói: "Lão hòa thượng Diệu Liên tuy biết Ngài tu khổ hạnh, nhưng những thập niên qua chưa từng nghe tin tức. Nay nghe Ngài đến, lão Hòa Thượng thật rất vui mừng. Vừa rồi có gởi thư đến bảo rằng lão Hòa Thượng sẽ về lại Đường Sơn để trùng tu chùa Qui Sơn tại Ninh Đức."

Vài ngày sau, tôi đi thăm tháp Đại Kim ở Ngưỡng Quang (Miến Điện). Tham quan các thánh cảnh xong, tôi liền cáo từ, vội trở về nước vì e sợ lão hòa thượng Diệu Liên đang đợi chờ. Cư sĩ họ Cao đưa tôi ra ga xe lửa và đánh điện tín về chùa Cực Lạc tại đảo Tân Lang để ra đón tôi.

Khi vừa đến bến, vì trên tàu có người chết do bịnh dịch hạch, nên một lá cờ màu vàng "Đả Hạn" được trương lên. Những người trên tàu đều bị khám nghiệm trên một vùng đồi núi rộng rãi. Hơn ngàn người ở tạm lại trên núi, nhưng không có lều vải chi hết. Ban ngày, bị mặt trời thiêu đốt cháy da. Ban đêm, mưa gió lạnh buốt. Khẩu phần thực phẩm của mỗi người trong một ngày chỉ có một nhúm gạo và hai củ cà rốt. Tất cả phải tự nấu ăn lấy. Bác sĩ đến khám bịnh hai lần một ngày. Đến ngày thứ bảy, khoảng phân nửa số người ở đó được rời núi. Ngày thứ mười, hầu hết mọi người đều rời đảo, duy chỉ còn một mình tôi. Khi ấy, tâm tôi thật khó kiên nhẫn, lại thêm thống khổ vì bịnh tình ngày một gia tăng. Từ từ, tôi không thể ăn gì được. Ngày mười tám, bác sĩ đến, bảo phải khiêng tôi qua một tịnh thất, nơi không ai ở. Tôi vui lên phần nào. Có một ông lão giữ cửa, khi hỏi qua được biết ông là người Tuyền Châu. Ông lão than thở: "Căn phòng này chỉ dành cho những người bịnh sắp chết nằm. Sau khi chết, sẽ bị giải phẩu!"

Tôi nói rõ là muốn đến thăm chùa Cực Lạc. Ông lão cảm động, nói: "Tôi sẽ lấy thuốc cho Ngài uống."

Ông lão liền lấy một đơn thuốc cho tôi uống trong hai ngày. Bịnh tình thuyên giảm đôi chút. Ông lão lại nói: "Khi bác sĩ đến, tôi ở bên ngoài phòng, ho lên làm hiệu. Lúc ấy, Ngài nên ngồi dậy, phấn chấn tinh thần. Nếu bác sĩ cho thuốc thì chớ có uống."

Lát sau, quả nhiên bác sĩ đến, đưa thuốc bảo tôi phải uống. Vì không thể cưỡng lại được nên tôi đành phải uống. Bác sĩ vừa đi khỏi thì ông lão đến và hỏi rằng tôi có uống thuốc không. Tôi đáp là đã uống rồi. Ông lão kinh sợ và nói: "Thôi rồi! Ngài chắc khó sống. Ngày mai bác sĩ sẽ đến để mổ thân Ngài. Tôi sẽ cho Ngài uống thêm một đơn thuốc nữa. Chỉ cầu mong Phật Tổ cứu sống Ngài."

Hôm sau, ông lão đến thăm, thấy tôi đang ngồi dưới đất. Tuy mắt mở to nhưng tôi chẳng thấy gì. Ông lão đỡ tôi dậy, thấy máu chảy đầy mặt đất. Ông cho uống thêm một đơn thuốc, gấp rút giúp tôi thay quần áo, cùng lau chùi sàn nhà sạch sẽ, rồi lại than: "Nếu là người khác, sau khi uống thuốc của bác sĩ cho vào ngày hôm qua, chắc đã bị mổ trước khi trút hơi thở cuối cùng rồi. Số mạng Ngài chưa hết, chắc chắn là do chư Phật gia hộ. Lúc chín giờ, bác sĩ sẽ đến nữa. Khi ấy, tôi sẽ ho lên để làm hiệu. Nghe tiếng ho, Ngài nên cố ngồi dậy, phấn chấn tinh thần."

Khi bác sĩ đến, thấy tôi vẫn còn sống. Ông chỉ ngón tay về hướng tôi rồi cười và bỏ đi. Khi hỏi tại sao bác sĩ lại cười, ông lão đáp là mạng sống tôi chưa dứt. Tôi bảo ông lão là cư sĩ họ Cao có cúng dường tôi một ít tiền. Vậy hãy giúp tôi lấy số tiền này mà tặng cho bác sĩ, để xin ông ta thả tôi ra. Sau đó, tôi liền lấy ra bốn mươi ngàn đồng nhờ đưa cho bác sĩ và hai mươi ngàn đồng để tặng riêng như một món quà để đáp đền những gì ông lão đã giúp đỡ. Ông lão nói: "Tôi không thể lấy tiền của Ngài được. Hôm nay, sẽ có bác sĩ người tây phương đến nên không thể thương lượng. Ngày mai, bác sĩ sẽ là người Cát Lãnh. Lúc đó mới có thể bàn chuyện được."

Chiều hôm đó, ông lão đến và bảo: "Tôi đã nói chuyện với bác sĩ người Cát Lãnh và đã đưa cho ông ta hai mươi ngàn đồng rồi. Ngày mai, Ngài sẽ được thả ra."

Nghe thế, tôi rất an tâm, liền cảm tạ ông lão. Ngày kế, bác sĩ đến, khám xong, liền sai người đem ghe ra đưa tôi vào đất liền. Ông lão đỡ tôi lên ghe. Lúc đến bờ thì họ mướn xe chở tôi đến chùa Quảng Phúc. Vì thấy hình dạng gầy gò quái dị, nên thầy tri khách để mặc tôi ngồi cả hai giờ. Tự dưng tâm tôi khởi niềm buồn vui lẫn lộn. Vui vì không chết dưới tay của người ngoại quốc. Buồn vì thầy tri khách không làm tròn bổn phận. Cuối cùng, một lão già bước ra. Đó là thầy thủ tọa Giác Không. Tôi tự xưng là Hư Vân, rồi cúi đầu đảnh lễ. Lạy xuống rồi nhưng không đủ sức để đứng dậy, nên thầy thủ tọa liền đỡ tôi đứng dậy và nói: "Cư sĩ họ Cao đã đánh điện tín hơn hai mươi ngày mà không biết tin tức của thầy chi hết. Lão hòa thượng Diệu Liên cùng toàn thể đại chúng đều lo lắng cho thầy. Tại sao thân thể thầy ra nông nỗi này?"

Khi ấy, tất cả tăng chúng đều ra đến đầy cả điện đường. Trong phút chốc, tôi cảm giác nắng ấm mùa xuân tràn đầy khắp gian phòng. Lát sau, lão hòa thượng Diệu Liên bước vào và nói: "Ngày ngày trông mong tin tức. Sợ con gặp hiểm nạn. Thầy muốn trở về Phước Kiến để trùng tu lại chùa Qui Sơn, nhưng nghe con sắp đến đây nên mới nán ở lại."

Tôi đáp: "Đệ tử tội nặng. Cúi xin thầy từ bi tha lỗi!"

Sau đó, tôi lược thuật lại sự tình. Lão Hòa Thượng cùng đại chúng đều kinh ngạc và vui mừng, chấp tay niệm Phật, rồi đồng trở về chùa Cực Lạc. Lão Hòa Thượng lại bảo tôi hãy nên uống thuốc. Tôi thưa: "Con đã trở về nhà, vọng niệm đều dứt sạch, nghỉ ngơi vài ngày thì bịnh chắc sẽ khỏi."

Sau nầy, lão Hòa Thượng thấy tôi mỗi lần ngồi thiền suốt cả vài ngày nên răn dạy: "Khí hậu ở Nam Dương nóng nực, không như ở trong nước, ngồi thiền lâu e sợ hại đến thân."

Tuy nhiên, tôi không cảm thấy như thế. Lão Hòa Thượng lại bảo tiếp: "Con nên giảng kinh Pháp Hoa ở đây để kết duyên. Thầy phải trở về nước. Sau khi giảng kinh xong, chớ vội về Vân Nam, hãy đến núi Cổ Sơn, vì thầy còn một việc muốn nói với con."

Đưa lão Hòa Thượng lên tàu xong, tôi trở về chùa khai giảng kinh. Vài trăm người thọ giới quy y với tôi. Các vị hộ pháp tại Malacca thỉnh tôi đến đình Thanh Vân giảng kinh Dược Sư. Tôi qua Kuala Lumpur, được cư sĩ Diệp Phật Hữu, Vạn Vân Phàm v.v..., thỉnh đến chùa Linh Sơn giảng kinh Lăng Già. Tại các pháp hội giảng kinh, người thọ giới quy y có đến hơn mười ngàn người.

Mùa đông, toàn thể tăng chúng tỉnh Vân Nam đánh điện tín bảo là chính phủ hiện tại đang kê khai tài sản chùa chiền. Ngài Kỳ Thiền (tức thiền sư có tám ngón tay) cũng gởi điện tín qua, mời tôi quay về nước gấp để cùng nhau bàn tính chuyện giải quyết vấn đề. Vì cuối năm, nên tôi ở lại Kuala Lumpur qua năm mới.

Quang Tự năm thứ 32, 67 tuổi. (1906/07)

Mùa xuân, tôi trở về nước. Khi tàu ghé Đài Loan, tôi đến tham quan chùa Linh Tuyền. Đến Nhật Bổn, tôi viếng thăm các danh lam thắng cảnh, chùa tháp. Lúc ấy, chánh phủ Trung Hoa và Nhật Bổn có sự hiềm khích nên chư tăng người Nhật không được qua Trung Quốc, còn chư tăng người Hoa ở Nhật thì lại bị dòm ngó. Vì thế ước muốn liên hợp tín đồ Phật giáo Trung-Nhật của tôi bị trì hoãn.

Tháng ba, tôi trở về nước, cùng các đại biểu hội Phật giáo trong nước và đại sư Kỳ Thiền v.v..., đồng lên Bắc Kinh dâng thư thỉnh nguyện. Khi đến Bắc Kinh, chúng tôi trú tại chùa Hiền Lương. Ty tăng lục, thầy Pháp An chùa Long Tuyền, thầy Đạo Hưng, Giác Quang chùa Quán Ấm v.v..., đồng đến tiếp đón chúng tôi. Túc Thân Vương Thiện Kỳ thỉnh tôi thuyết giới pháp cho vợ ông. Các vương công đại quan, thân hữu quen biết tôi vào thời hộ giá chạy loạn cũng đến viếng thăm. Khi bàn cách thức dâng chiếu thỉnh nguyện thì chúng tôi được các vị hộ pháp trợ giúp rất nhiều. Thế nên, mọi việc đều thuận lợi. Sau khi dâng chiếu thỉnh nguyện xong, Hoàng Đế liền ra sắc dụ như sau:

"Quang Tự năm thứ ba mươi hai. Trong sự quyên góp, xưa đã ban dụ chỉ, không cho phép các vị quan to ỷ quyền thế, hà hiếp quấy nhiễu dân nghèo. Nhưng gần đây, nghe các vị Biện Lý ở các tỉnh, đang hà hiếp quấy nhiễu dân lành, thậm chí còn đi ra ngoài, đến các chùa chiền quyên góp nữa. Những việc như thế, không thể chấp nhận được. Nay ra chiếu chỉ cho các tỉnh phủ, phàm có các chùa viện lớn nhỏ cùng tất cả tài sản của tăng chúng đều phải do các quan địa phương bảo hộ, không được điêu ngoa đố kỵ chiếm lấy, tạo nên mầm mống nhiễu loạn. Chính quyền địa phương, không được thâu góp quyên tổn tài sản tăng chúng, phải giữ lễ đoan chánh. Khâm Thử."

Sau khi chiếu dụ ban ra, sự niêm phong tài sản tự viện ở các tỉnh liền chấm dứt.

Tại Bắc Kinh, tôi nói với các vị hộ pháp rằng bắt đầu từ triều Thanh, tỉnh Vân Nam chưa từng được ban Đại Tạng kinh. Nay, tôi muốn dâng chiếu thỉnh toàn bộ Đại Tạng Kinh, để cho vùng biên địa được thấm nhuần mưa pháp. Được sự bảo hộ của Túc Thân Vương, Thiện Kỳ, chiếu thỉnh nghị do đại quan tổng quản nội vụ dâng lên như sau:

"Theo lời của Ngài tăng lục, đại sư Pháp An, thì tỉnh Vân Nam, phủ Đại Lý, huyện Tân Châu, núi Kê Túc, am Bồn Vu, chùa Ngưỡng Dương, phương trượng trụ trì tăng nhân hiệu Hư Vân trình xưng rằng chùa vốn là đạo tràng thắng hội của tổ Ma Ha Ca Diếp, thuộc hàng danh lam thắng cảnh, và là ngôi phạm sát cổ xưa trong nước, nhưng lại thiếu Đại Tạng kinh. Nay, cầu thỉnh Đại Tạng kinh, hầu mong vĩnh viễn cung kính phụng thờ, sùng hưng Phật pháp.

Chiếu thỉnh cầu này do quan thượng thư chánh bộ Túc Thân Vương, đại sư Trừng Hải trụ trì chùa Bách Lâm, đại sư Đạo Hưng trụ trì chùa Long Hưng v.v..., cùng dâng biểu. Nếu như được chấp thuận, xin quan nha môn truyền bảo ty tăng lục lo việc ban chuyển Đại Tạng kinh, phụng theo thỉnh dụ trên đây. Thỉnh chỉ."

Ngày sáu tháng sáu, Quang Tự năm thứ ba mươi ba, dụ được phê chuẩn như sau:

"Thượng dụ, tỉnh Vân Nam núi Kê Túc, am Bồn Vu, chùa Ngưỡng Dương, được ban tặng, đổi hiệu là Hộ Quốc Chúc Thánh thiền tự, lại ban cho một bộ Đại Tạng kinh, tăng y màu vàng tím, bát cụ, cùng ngọc ấn Hoàng Đế và tích trượng Như Ý cho đại sư phương trượng, vì có công hộ giá Hoàng Đế lúc tao loạn. Lại ban hiệu cho đại sư trụ trì, Hư Vân là đại sư Phật Từ Hồng Pháp, phụng chỉ trở về núi truyền giới, hộ trì quốc gia, làm việc hữu ích cho nhân dân. Đại quan nội vụ nên báo cho đại sư Hư Vân, đem các vật trên, trở về núi, vĩnh chấn sơn môn, vì việc thiện mà ban bố giáo lý Phật Đà. Quan dân địa phương, tất cả phải phụng chỉ, nhớ rõ mà hộ trì Phật pháp, chớ có khinh thường. Khâm Chỉ.

Quang Tự tháng bảy, năm thứ ba mươi hai."

Việc thỉnh Đại Tạng kinh như thế đã tạm yên. Ngày hai mươi tháng sáu, tôi nhận được thư của lão hòa thượng Diệu Liên, viết: "Lúc khởi hành thỉnh Đại Tạng kinh về Vân Nam, trước tiên con hãy đến cửa ải Hạ Môn, đi Nam Dương, rồi từ đó vào đất Vân Nam. Tại Hạ Môn, con nên lưu lại, trở về Cổ Sơn gặp thầy gấp."

Sau đó, tôi chuẩn bị vận chuyển Đại Tạng kinh đi về Nam. Chư vị hộ pháp ở Bắc Kinh trợ giúp rất nhiều. Gần cuối năm, nên tôi ở lại Bắc Kinh qua năm mới.

Quang Tự năm thứ 33, 68 tuổi. (1907/08)

Tháng giêng, tôi vận chuyển Đại Tạng kinh rời Bắc Kinh. Đầu tiên, đến Thượng Hải và Hạ Môn. Trên đường đi, nhờ sự giúp đỡ của hai thầy Văn Chất tại núi Phật Đảnh và Chuyển Đạo tại cung Dưỡng Chân rất nhiều. Khi đến Hạ Môn, tôi nhận được điện tín cấp báo từ Cổ Sơn gởi tới, bảo rằng lão hòa thượng Diệu Liên tại chùa Quy Sơn đã viên tịch vào tháng giêng. Lúc ấy, chư sơn trưởng lão cùng tăng chúng ở Hạ Môn đến Cổ Sơn tham gia lễ trà tỳ của lão hòa thượng Diệu Liên. Từ chùa Qui Sơn, linh tháp lão Hòa Thượng được dời về Hạ Viện Cổ Sơn để tiện việc lễ táng. Tôi tức tốc quay về Cổ Sơn, kiến lập Tháp Tổ cùng truyền giới U Minh v.v..., bận rộn ngày đêm. Ngày mười tháng tư, làm lễ nhập tháp. Lúc vừa xây tháp xong, trời đổ mưa to, ròng rã cả nửa tháng. Toàn thể đại chúng đều ưu buồn. Ngày mồng tám, truyền giới Bồ Tát xong, trời bắt đầu tạnh mưa. Ngày mồng chín, trời trong mây tạnh; quan dân sĩ thứ đến núi dự lễ an táng đều cảm duyên nơi đạo. Ngày mồng mười, lúc làm lễ nhập tháp, trăm bàn thức ăn chay tịnh được sắp ngoài trời để cúng lễ. Đại chúng cùng tụng kinh. Đang cúng Ngọ, niệm đến chân ngôn biến thực, bỗng đâu một ngọn gió cuồn cuộn, thổi bay tất cả thức ăn tế phẩm lên trên trời. Từ linh cữu phóng ra một luồng hào quang màu đỏ sáng tỏ, bay thẳng vào trên đảnh tháp. Đại chúng đều vui vẻ tán thán. Lễ nhập tháp xong, toàn thể đại chúng trở về chùa thì trời đổ mưa to dầm dề. Xá Lợi của lão hòa thượng Diệu Liên được phân làm hai phần: Một phần để vào trong tháp. Một phần đem đến chùa Cực Lạc ở Nam Dương để thờ.

Lúc phụng chuyển Đại Tạng kinh cùng xá lợi của cố lão Hòa Thượng đến Penang, Mã Lai Á, đại chúng cùng chư tăng đình Quán Ấm tới đón tiếp cả vài ngàn người. Đang tụng kinh, niệm đến chân ngôn biến thực thì lại một luồng gió cuồn cuộn, thổi bay hết tất cả bông hoa cúng dường. Từ nơi linh cữu phóng ra một luồng ánh sáng trắng, bay thẳng đến đỉnh tháp, cả ngoài hai dặm. Tôi làm pháp chủ hai buổi lễ nhập tháp, mắt thấy tai nghe, tường tận chứng kiến. Phật nói: "Người hành mật hạnh thật khó nghĩ bàn."

Nói về sự tu trì của lão hòa thượng Diệu Liên lúc còn sống, tôi không biết được nhiều. Lão Hòa Thượng không tu thiền hay tịnh độ, duy chỉ cất chùa lập viện, tiếp độ tăng chúng để kết duyên. Nhân duyên sau cùng khi làm lễ nhập tháp, thực rất kỳ lạ. Sau khi xuống tóc xuất gia, tôi đi chu du khắp bốn phương, đã lâu lắm rồi chưa được dịp hầu hạ Ngài. Lại cả bao thập niên, không thư từ thưa hỏi, phụ bạc ân Thầy. Nhân duyên cuối cùng với lão Hòa Thượng, là việc tôi có phước phần lo liệu lễ táng linh cữu tháp tự, cùng đặt để phân chia xá lợi. Nhớ đến việc, dặn bảo tôi lần sau cùng lúc trước, chứng tỏ Ngài biết được ngày giờ lâm chung. Thật khó mà biết đúng sự thật. Tôi chỉ lược thuật sự thật trong hiện tại, còn việc chứng minh thì để người sau tự kết luận lấy.

Kế tiếp, tôi đi tàu đến đình Quán Ấm, được thỉnh giảng Tâm Kinh. Sau đó, đón tàu khác đi Xiêm La (Thái Lan). Trên tàu không có thức ăn chay. Tôi ngồi thiền suốt cả ngày. Một người Anh, đi qua chỗ tôi ngồi, ngó vài lần rồi nói: "Bạch Hòa Thượng! Ngài đi đâu vậy?"

Nghe ông ta nói tiếng Hoa, tôi đáp: "Tôi đi Vân Nam."

Lúc ấy, ông ta liền mời tôi lên phòng tàu, lấy bánh và sữa ra mời, nhưng tôi nhã nhặn từ chối.

Ông hỏi: "Bạch Hòa Thượng! Nơi Vân Nam, Ngài ở vùng nào vậy?"

Tôi đáp: "Tôi ở tại chùa Ngưỡng Dương, núi Kê Túc."

Ông nói: "Quy củ của chùa ấy rất nghiêm ngặt."

Tôi hỏi: "Ông làm việc gì ở đó?"

Ông trả lời: "Tôi là quan lãnh sự ở Côn Minh, Đằng Xung. Tôi có đến tham quan tự viện nơi đó."

Ông lại hỏi: "Bạch Hòa Thượng! Vậy Ngài đi ra nước ngoài để làm gì?"

Tôi đáp: "Trên đường vận chuyển Đại Tạng kinh trở về Vân Nam, vì thiếu tiền lộ phí, nên tôi phải đi qua Kuala Lumpur (Mã Lai Á) để hóa duyên, quyên góp tịnh tài."

Ông hỏi: "Bạch Hòa Thượng! Vậy Ngài có đem theo công văn không?"

Tôi lấy công văn chứng cứ và ngân phiếu ra cho ông ta xem. Ông liền viết một ngân phiếu ba ngàn đồng cúng dường cho tôi. Thật là một thiện duyên kỳ lạ. Sau đó, ông ta mời tôi ăn cơm chay gồm có cơm chiên với rau cải. Khi tàu cập bến tại Xiêm La, chúng tôi chia tay tạm biệt.

Tôi trú tại chùa Long Tuyền, giảng kinh Địa Tạng. Trong lúc giảng kinh, ông ta đến chùa gặp tôi, cúng dường ba ngàn đồng. Để xây điện thờ Đại Tạng kinh, cần phải có một số tiền cả hơn vài ngàn đồng. Trước khi ông lãnh sụ cúng dường, tôi chỉ quyên được chút ít thôi. Sau khi giảng kinh Địa Tạng xong, tôi lại tiếp tục giảng phẩm Phổ Môn. Thính giả có đến vài trăm vị.

Ngày nọ, khi đang ngồi thiền, tôi bỗng dưng nhập định, quên rằng mình đang giảng kinh. Tôi nhập định suốt bảy ngày. Tin này lan tràn cả thủ đô Xiêm La. Từ Quốc Vương, đại quan, cho đến thiện nam tín nũ, đều đến lễ bái. Sau khi xuất định, giảng kinh xong, Quốc Vương thỉnh tôi đến hoàng cung thiết lễ cúng dường, chí thành quy y. Quan thân sĩ thứ cùng dân chúng quy y tôi cả vài ngàn người. Sau khi xuất định, chân tôi bị tê liệt, đi đứng không nỗi. Kế đến, toàn thân tê cứng như cây khô, không thể nói năng chi được. Ắn phải nhờ người đút. Chư hộ pháp mời bác sĩ đông tây đến chữa trị, châm cứu uống thuốc, nhưng vô hiệu quả. Thậm chí, miệng không nói được lời nào, mắt không thấy chi. Các bác sĩ đều bó tay chịu thua. Tuy vậy, thân tâm tự tại, không chút đau khổ, buông xả hết mọi việc, duy chỉ còn một việc chưa yên lòng là trong áo tôi còn một ngân phiếu, không ai biết cả. Miệng không thể nói. Tay không thể viết. Lúc nhắm mắt, thân này được hỏa táng thì ngân phiếu đó chắc cũng sẽ bị đốt luôn. Đại Tạng kinh không thể đem về Vân Nam, điện các tại núi Kê Túc không thể kiến lập. Nhân quả này bút mực nào viết cho hết được. Nghĩ đến đó, nước mắt tuôn trào, thầm lặng cầu mong tôn giả Ma Ha Ca Diếp gia hộ. Lúc ấy, có thầy Diệu Viên là pháp hữu tại núi Chung Nam thuở xưa, thấy tôi rơi lệ, miệng nhấp nháy, liền kê tai gần miệng để lắng nghe. Ra hiệu nhờ thầy đem trà cho tôi uống. Tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Uống trà xong, thân tâm lắng trong, liền nhập mộng, thấy một lão tăng tướng mạo giống Ngài Ma Ha Ca Diếp, ngồi kế bên chỗ tôi nằm, lấy tay phải xoa đầu và bảo: "Nầy Tỳ Kheo! Y bát chớ để xa thân. Thầy đừng quá ưu sầu. Hãy lấy y bát lót đầu nằm, rồi mọi việc sẽ an lành!"

Nghe xong, tôi liền đưa tay lấy y bát làm gối nằm, rồi xoay đầu lại thì không thấy tôn giả Ma Ha Ca Diếp đâu cả. Lúc đó, toàn thân đều toát mồ hôi. Thân tâm khỏe khoắn, an lạc không lời chi diễn tả. Tôi lại nói được chút ít. Nhờ thầy Diệu Viên đến trước điện Hoa Đà cầu thuốc uống, nhưng chỉ được hai vị Mộc Trát và Dạ Minh Sa. Lúc ấy, mắt tôi mở ra chút ít, nói chuyện lại được. Lại cầu thêm một toa thuốc nữa, chỉ được vị Xích Tiểu Đậu. Lấy đậu nầy nấu với cháo mà ăn. Không được dùng thức ăn cứng. Ắn như thế hai ngày, đầu động đậy được đôi chút. Lại cầu nguyện xin thuốc, vẫn là vị Xích Tiểu Đậu. Từ đó, lấy đậu này nấu với cháo mà ăn. Đại tiểu tiện đều thông. Ra phẩn đen ngòm. Từ từ, thân thể cảm giác đau chút ít. Có thể ngồi, và có thể đi. Bịnh tình như thế trước sau, trải qua hơn hai mươi ngày. Thật đa tạ đại chúng, đã mệt thân phí sức vì tôi. Thầy Diệu Viên ngày đêm túc trực lo lắng. Tôi thật cảm ân hết sức. Tôi lễ tạ Bồ Tát Hoa Đà; nguyện sau này sẽ xây cất điện già lam để thờ Ngài. Tôi lấy vài thẻ, tất cả đều được như ý.

Bịnh tình thuyên giảm, tôi tiếp tục giảng luận Đại Thừa Khởi Tín. Giảng vừa xong, hai thầy Thiện Khiêm và Bảo Nguyệt từ chùa Cực Lạc ở Penang đến đón tôi về. Quốc Vương, đại thần, cư sĩ hộ pháp, thiện nam tín nũ trong thủ đô Xiêm La đều đến tiển đưa, cúng dường số lớn tịnh tài. Lúc trước, khi tôi đến hoàng cung làm Phật sự, Quốc Vương Xiêm La cúng dường ba trăm mẫu đất tại Đổng Lý. Tôi giao khoảnh đất này cho hòa thượng Thiện Khánh ở chùa Cực Lạc, Penang, và yêu cầu Ngài lập một cơ xưởng làm cao su. Tôi cùng với hai thầy Thiện Khiêm và Bảo Nguyệt ở lại vùng đất sắp lập cơ xưởng đó qua năm mới.

Quang Tự năm thứ 34, 69 tuổi. (1908/09)

Mùa xuân, từ Đổng Lý, tôi cùng hòa thượng Thiện Khiêm đến thăm lâu các Quán Ấm tại Tuyết Lan Nga. Đạo tràng này chính tay thầy Thiện Khiêm lập ra. Sau đó, tôi tham quan các danh lam thắng cảnh tại Dị Bảo và Phính Lịch, rồi trở về chùa Cực Lạc, giảng luận Đại Thừa Khởi Tín, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Trong những pháp hội giảng kinh, chư thiện nam tín nữ đến quy y rất nhiều. Tôi dành rất nhiều thời giờ để tiếp chuyện với họ cả ngày. Nơi chùa Cực Lạc, lúc giảng kinh xong, tôi liền bế quan nhập thất, tạm đình chỉ việc giảng kinh cùng tiếp đãi khách khứa. Tôi ở qua năm mới tại chùa.

(Đại sự trong năm: Ngày mười một tháng mười, Hoàng Đế băng hà, lập miếu hiệu là Đức Tông. Ngày hai mươi hai, thái hậu Từ Hi băng hà.)

Tuyên Thống nguyên niên, 70 tuổi. (1909/10)

Từ Penang, Mã Lai Á, tôi bắt đầu khởi hành vận chuyển Đại Tạng kinh. Khi đến Ngưỡng Quang (Miến Điện), cư sĩ Cao Vạn Bang ra tiếp đón, lưu giữ tôi ở lại nhà ông hơn cả tháng. Đích thân ông đưa tôi đi Ngõa Thành. Tại Ngưỡng Quang, Cao cư sĩ thỉnh một tôn tượng Phật nằm, định mang về chùa Chúc Thánh thờ phụng. Khi tàu đến Tân Nhai, tôi ghé lại đình Quán Ấm, thuê người ngựa đi về núi Kê Túc. Vì kiện vật quá nặng, ngựa không thể chở hết và lại không thể thuê người thêm, nên tạm để tượng Ngọc Phật lại đình Quán Ấm, vài năm sau sẽ thỉnh về núi. Cao cư sĩ lưu giữ tôi lại hơn bốn mươi ngày, tự thân lo liệu sắp đặt việc chuyển vận, cúng dường tiền tài, sức lục. Cử chỉ ông rất chân thành, thật là hiếm có.

Người ngựa đồng hành; đi qua các trấn như Đằng Xung, Hạ Quan đều được dân chúng vui vẻ tiếp đón. Tuy đi hơn cả mười ngày mà người ngựa đều bình an. Chỉ có một lần, khi từ Hạ Quan vào Đại Lý thì sét đánh, hồ Nhĩ Hải nổi sóng to, mây khí biến chuyển, tạo khung cảnh rất kỳ đặc, nhưng lại không mưa. Vừa đến cổng chùa gần hồ Nhĩ Hải thì làm lễ nghinh tiếp Đại Tạng kinh. Sau khi Đại Tạng kinh được chuyển vào chùa an toàn thì trời đổ mưa to dầm dề cho đến hôm sau mới tạnh. Dân chúng cho là lão rồng hồ Nhĩ Hải đến nghinh đón Đại Tạng kinh. Lúc ấy, có tổng tỉnh trưởng Lý Kỉnh Hy của tỉnh Vân Nam và Quý Châu, phụng theo chiếu chỉ Hoàng Đế, phái tùy viên đến Đại Lý, thống lãnh quan dân sĩ thứ tiếp chiếu chỉ nghinh đón Đại Tạng kinh. Họ mắt thấy những việc kỳ lạ này, đồng tán thán Phật pháp thật vô biên. Nghỉ ngơi tại Đại Lý mười ngày, rồi từ Hạ Quan, Triệu Châu đến huyện Tân Xuyên, đi thẳng về chùa Chúc Thánh, một mạch bình an, không một giọt mưa thấm ướt hòm đựng Đại Tạng kinh. Cuối cùng, Đại Tạng kinh được chuyển vào điện các. Đến ngày ba mươi tháng chạp, chùa Chúc Thánh tổ chức hội hương lễ. Hàng chục ngàn người đến dự, đều vui vẻ tán thán điềm lành, thật chưa từng có.

Trong khi thỉnh kinh về núi, có một việc đáng ghi nhận:

Lúc tôi đi ngang qua Đằng Xung, ghé lại chùa Vạn Thọ, đang cùng ngồi đàm đạo với đề đốc Trương Tùng Lâm, bỗng đâu một con bò vàng chạy đến, quỳ xuống, hai mắt rơi lệ. Chạy theo sau là chủ của nó, tên Dương Thắng Xương, cùng nhiều người khác. Được biết ông Dương Thắng Xương, là người chuyên giết bò. Tôi quay về hướng con bò đó và nói: "Nếu con muốn chạy trốn để sống thì phải quy y Tam Bảo!"

Bò liền gật đầu. Tôi thuyết Tam Quy Y, rồi đỡ nó đứng dậy. Bò thuần thục nghe theo như người vậy. Tôi lấy tiền ra đưa cho chủ bò, nhưng ông ta không nhận. Cảm động việc kỳ lạ này, ông chủ bò thề nguyền rằng sẽ đổi nghề khác, và thỉnh cầu quy y cùng ăn chay trường. Đề đốc Trương Tùng Lâm cảm kích việc này nên nhận ông chủ bò làm việc tại một khách sạn.

Tuyên Thống năm thứ 2, 71 tuổi. (1910/11)

Từ khi chiếu vua ban ra, ngăn cấm quan quân thâu lấy tài sản chùa chiền, cùng thỉnh được Đại Tạng Kinh về núi, tăng già toàn tỉnh tạm sống an ổn. Tỉnh trưởng tỉnh Vân Nam, Lý Kỉnh Hy, phái tùy viên đến thăm viếng và bảo toàn gia quyến đến chùa làm lễ quy y, tặng rất nhiều lễ vật. Tôi thỉnh thầy Giới Trần ra thất. Lại cố khuyên răn tăng chúng trên núi phải tôn trọng giữ gìn giới luật cẩn trọng. Đề xướng giáo dục thanh niên, dẹp trừ tập khí xấu xa, phấn chấn đạo phong núi Kê Túc. Thương lượng quan huyện Tân Xuyên thả các thầy bị nhốt trong tù cùng các tù nhân nhẹ tội.

Mùa hạ, từ Cổ Sơn chuyển đến một bức thư gia đình tại Tương Lương. Chốc đó mà đã năm mươi năm kể từ lúc xuất gia. Tôi viết ba bài thơ, trong đó có câu:

"Kính ai một đời nghiệp thanh tịnh

Nơi tâm cảnh chẳng dính mãi trần

Lâu rồi quên hẳn việc thế gian,

Hãy trông chừng tập khí nơi đất tâm."

Lúc ấy, cư sĩ Hàn Vĩnh Xương, tổng bí thư chánh phủ đương thời, sau khi đọc bài thơ của tôi, liền khắc lên đá cuộc đời của tỳ kheo ny Diệu Tịnh cùng bài thơ lưu kệ của bà.

(Lưu kệ ký của tỳ kheo ni Diệu Tịnh:

Tỳ kheo ny Diệu Tịnh, tên tục Vương Thị, là mẹ kế của Vân Công (hòa thượng Hư Vân). Vân Công pháp danh Cổ Nghiêm tự Đức Thanh hiệu Hư Vân, người Tương Lương, tỉnh Hồ Nam, tên tục là Trai, thuộc dòng dõi vua Lương Võ Đế. Cha tên Ngọc Đường, làm quan tại phủ Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến. Mẹ họ Nhan, tuổi ngoài bốn mươi mà chưa có một mụn con, nên cầu nguyện Bồ Tát Quán Ấm, ban con cho. Cha mẹ mộng thấy một vị trưởng lão mặc y màu xanh, đầu đội tượng Quán Ấm, thân cỡi hổ, nhảy lên giường nằm. Mẹ kinh sợ tỉnh dậy, nghe mùi hương lạ bay khắp phòng, liền thọ thai Vân Công. Sau đó sanh ra một bọc thịt. Mẹ Ngài thất vọng ê chề, uất khí mà mất. Hôm sau, một lão bán thuốc đến nhà, lấy dao rạch bọc thịt ra được một bé trai trân quý chính là Vân Công. Từ đó Ngài được người mẹ kế săn sóc nuôi nấng. Vân Công tánh vốn không ăn thịt. Khi lớn lên, được học hành nhưng không thích Nho giáo mà chỉ thích giáo lý nhà Phật, làm cha không vui, nên bị nghiêm trách. Năm mười bảy tuổi, theo định ước, cha cưới hai cô gái là Điền Thị và Đàm Thị, nhưng Vân Công chưa hề nhiễm sắc dục. Ngài trốn lên núi Cô Sơn, tỉnh Phúc Kiến, lễ hòa thượng Diệu Liên làm thầy xuống tóc xuất gia. Đồng Trị năm thứ ba, cha qua đời. Bà mẹ kế dẫn hai cô dâu đi tu. Điền Thị bị bịnh phổi, ho ra máu. Bà tu được bốn năm thì bị chết vì bịnh. Đàm Thị vẫn còn sống, làm sư cô tại núi Quán Ấm huyện Tương Lương, pháp danh Thanh Tiết. Trong thơ gởi cho Vân Công, bà cho biết là ngày mồng tám tháng chạp năm Kỷ Dậu (1909/10) người mẹ kế ngồi xếp bằng, viết bài kệ rồi thị tịch, vãng sanh cõi tây phương Cực Lạc.)

Tuyên Thống năm thứ 3, 72 tuổi. (1912/13)

Mùa xuân, sau kỳ truyền giới, tôi kiết thiền thất trong bốn mươi chín ngày đêm, đề xướng tọa hương, an cư kiết hạ, theo tất cả quy củ pháp thức. Đến tháng chín, cách mạng Vũ Hán lan tràn đến Vân Nam. Vùng địa phương bị loạn lạc, thành Tân Châu bị bao vây, bức bách nguy hại. Tôi đến điều giải. Nhân vì quan tổng binh Lý Căn Nguyên hiểu lầm nên phái binh lính đến vây núi Kê Túc. Tôi giải thích tự sự cho ông ta. Sau đó, ông cho binh lính rút lui và lại quy y Tam Bảo.

(Phần phụ chú của ông Sầm Học Lữ, người viết lại quyển biên niên tự thuật của thiền sư Hư Vân:

Quyển biên niên tự thuật này do chính thiền sư Hư Vân thuật lại bằng miệng, nhưng Ngài chỉ nói sơ lược thôi. Theo người viết lại quyển biên niên tự thuật này, khi duyệt lại quyển biệt ký tỉnh Vân Nam mới biết rõ sự việc tường tận, càng thấy ân đức của Ngài thật vô lượng. Quyển biệt ký ghi lại như sau:

Vân Công tại Vân Nam hoằng pháp độ sanh. Những tai nạn được Ngài cứu giúp, nay sơ lược kể lại:

Việc thứ nhất là trong năm cuối triều vua Tuyên Thống, quan tri huyện Tân Xuyên họ Trương, người Trường Sa, tánh tình nóng nảy. Nhân huyện Tân Xuyên bị trộm cướp liên miên, họ Trương trừng trị thẳng tay, giết rất nhiều người, mà trộm cướp lại còn tăng nhiều hơn trước. Chúng cùng nhau kết hội đảng. Các thân sĩ vì muốn bảo vệ gia đình nên phải gia nhập vào các hội đảng, nên bị họ Trương trừng trị giết hại. Tăng nhân núi Kê Túc, những ai không tu đúng theo pháp cũng bị bắt cả vài mươi người, chỉ có Vân Công luôn được họ Trương cung kính lễ bái. Khi cách mạng Tân Hợi bộc phát, huyện Tân Xuyên hưởng ứng đầu tiên. Quần chúng kéo đến bao vây dinh huyện. Họ Trương cố thủ, không được viện trợ bên ngoài, chỉ còn chờ chết. Vân Công xuống núi đi thẳng đến dinh huyện. Những người đang bao vây dinh huyện thấy Ngài đến liền nói: "Tên Trương này rất ác độc. Xin Ngài hãy dụ hắn ra để chúng con giết, hầu xoa dịu lòng căm phẩn của quần chúng."

Nghe thế, Ngài không nói chi. Nhưng khi vị thủ lãnh đến, Ngài liền bảo: "Giết họ Trương không khó. Vùng biên địa này có nhiều tin đồn thất thiệt. Việc lớn chưa định đoạt được. Chư vị vây hãm thành của quan tri huyện, khi viện binh đến thì chư vị sẽ bị trừng phạt nặng nề."

Viên thủ lãnh hỏi: "Bạch Hòa Thượng! Vậy, Ngài có lời dạy gì chăng?"

Ngài đáp: "Tôi nghe rằng Vương Công tỉnh Tứ Xuyên trên đường kinh lý, đã đến Đại Lý, tức chỉ cách đây hai ngày đường. Chư vị đến gặp Vương Công mà kể tội, thì họ Trương sẽ bị trừng trị đúng theo pháp luật, còn chư vị lại không tội vạ gì hết."

Viên thủ lãnh nghe theo lời dạy của Ngài, đóng quân ngoài dinh huyện. Vân Công đi vào dinh huyện, thấy họ Trương phẩn uất, đang định ra ngoài dinh ứng chiến. Khi thấy Vân Công bước vào, họ Trương liền cầm tay và nói: "Con đã làm tròn bổn phận của mình. Duy chỉ làm phiền Ngài là cho con một miếng đất để xây phần mộ dưới chân núi Kê Túc. Con thật cảm ơn công đức của Ngài."

Vân Công đáp: "Không cần thiết đâu! Thân sĩ ở đây kính trọng Trương Tịnh Hiên. Hãy mời ông ta đến bàn luận với dân chúng."

Trương Tịnh Hiên đến nghị luận với viên thủ lãnh. Quả nhiên, sau đó quần chúng giải tán. Trương Tịnh Hiên đi thẳng đến Đại Lý gặp Vương Công xin viện binh, giải vây dinh huyện. Khi Trương Tịnh Hiên đi khỏi, tỉnh Vân Nam tuyên bố độc lập. Thái Ngạc nhậm chức đô đốc. Con của họ Trương được cử làm ty trưởng ngoại giao vì là bạn đồng học của họ Thái. Sự việc giải quyết xong, họ Trương gởi thơ đến cảm tạ Vân Công như sau: "Ngài không những cứu mạng sống con mà lại còn tạo phước cho huyện Tân Xuyên. Nếu không có Ngài thì thù cha bị giết, con mình không báo phục sao!"

Việc thứ hai lại quan trọng hơn nữa, xảy ra như sau:

Khi Dân Quốc được thành lập, ở Tây Tạng, đức Phật sống cùng vương công quần thần ỷ đất đai hiểm trở, đường xá xa xôi, không tuân lệnh theo chánh phủ đương thời treo cờ cách mạng. Chính quyền Trung Ương ra lịnh cho quân tỉnh Vân Nam do tướng Ấn Thúc Hoàn thống lãnh, kéo quân sang trị tội. Quân tiền phong đã đến huyện Tân Xuyên. Vân Công sợ rằng nếu chiến tranh xảy ra thì vùng biên cương này không thể tránh khỏi hiểm họa, nên theo đoàn quân tiền phong đến Đại Lý, gặp tướng họ Ấn. Vân Công nói: "Người Tây Tạng đều tin theo Phật pháp. Nếu bảo người nào thông hiểu Phật pháp qua Tây Tạng thương thuyết thì sẽ giải quyết được sự việc mà không cần dùng binh."

Tướng họ Ấn đồng ý, lại mời Vân Công làm pháp sư tuyên úy. Vân Công nói: "Tôi là người Hán, đi qua đó sợ sẽ bị thất bại. Hãy thỉnh đức đạt ma hiệu là Đông Bảo, người Lạp Xuyên, là vị xuất gia lâu năm, lại có đức độ, được người Tây Tạng cung kính tín phục và tôn Ngài là Pháp Vương Tứ Bảo. Nếu vị này đi qua đó thì sự việc chắc sẽ thành công."

Nghe thế, tướng họ Ấn viết thơ nhờ Vân Công mang đến để gặp ngài lạt ma Đông Bảo cùng phái quân tùy tùng theo hầu giúp. Mới đầu ngài lạt ma Đông Bảo khước từ, viện lý do là già yếu. Vân Công liền nói: "Thảm họa của quân Triệu Nhi Phong, người Tây Tạng cho đến nay vẫn còn run sợ. Ngài tiếc chi ba tấc lưỡi mà hại đến muôn ngàn sanh mạng dân chúng!"

Ngài Đông Bảo đứng dậy đáp: "Được! Tôi sẽ đi! Tôi sẽ đi!"

Ngài lạt ma Đông Bảo thọ nhận mệnh lệnh đi Tây Tạng. Cùng đi với ngài Đông Bảo là lão hòa thượng Pháp Ngộ. Sau khi qua Tây Tạng, họ ký hòa ước rồi trở về. Tại Vân Nam, tướng họ Ấn liền bãi binh. Dân quốc thống nhất thành một khối. Bao năm Hán-Tạng luôn xích mích, chiến tranh thống khổ không ngừng, đến nay tạm điều giải. Hòa bình an lạc mãi trong ba mươi năm.

Việc thứ ba là sau khi Vân Công thỉnh Đại Tạng kinh về Vân Nam, Ngài luôn ban bố Phật pháp, giáo hóa chúng dân. Quan dân sĩ thứ vùng địa phương ngày càng thêm kính trọng. Cho đến cô nhi quả phụ, ai ai cũng gọi Ngài là lão hòa thượng Hư Vân. Cách mạng Tân Hợi nổi lên, triều Thanh thoái vị. Các tỉnh trưởng đuổi tăng ni, phá chùa chiền, làm mưa gió một thời. Lúc ấy, vị tướng tỉnh Vân Nam là Lý Căn Nguyên, vì ghét vài ông tăng không chịu giữ giới luật, nên định kéo quân lên núi đuổi tăng chúng, phá chùa chiền. Khi sắp lên núi, ông hỏi quan quân địa phương là tại sao Vân Công, một lão tăng nghèo hèn, mà lại thâu phục được lòng dân chúng, chắc có việc chi kỳ quái. Vì vậy, ông ra lệnh bắt giam Ngài. Thấy việc không may, hiểm họa sắp đến, tăng chúng các chùa đều bỏ trốn đi cả. Trên một trăm vị tăng còn ở lại với Ngài, tất cả đều lo sợ, lại khuyên Ngài hãy đi lánh nạn. Vân Công đáp: "Các vị muốn đi thì cứ đi. Nếu phải trả nghiệp báo thì lẫn trốn có ích chi? Tôi sẵn sàng đem thân mạng mình hy sinh cho Phật pháp."

Toàn thể đại chúng an lòng ở lại với Ngài. Vài ngày sau, quả nhiên nhiếp tướng Lý Căn Nguyên thống lãnh quân sĩ tiến lên núi, đóng quân tại chùa Tất Đàn, phá tượng đồng Đại Vương, tượng Phật, điện chư Thiên tại Kim Đảnh, núi Kê Túc. Vì việc cấp bách nên Vân Công một mình đơn độc xuống núi, đi thẳng vào trại lính, đưa thẻ trình cho lính gác cổng. Lính gác nhận diện được nên bảo Ngài hãy mau trốn đi chỗ khác, nếu không thì chỉ chuốc lấy tai họa, chắc sẽ bị giết hại. Vân Công không quay về, lại tự đi thẳng vào doanh trại, thấy Lý Căn Nguyên cùng quan bố chánh Triệu Phiên đang ngồi trong nội điện. Vân Công tiến đến trước mặt họ làm lễ. Họ Lý vẫn không quay mặt lại nhìn Ngài. Vì Triệu Phiên đã từng quen biết Vân Công thuở trước, liền hỏi Ngài đến để làm gì. Vân Công trần thuật mọi sự việc. Lúc ấy, họ Lý với sắc mặt nóng giận, nghe thế liền hỏi: "Phật giáo dùng để làm gì, có ích lợi chi?"

Vân Công đáp: "Ấn đức giáo hóa của thánh nhân thật vô lượng. Nói rộng ra, Phật giáo dùng để cứu đời, làm lợi ích cho nhân dân. Từ lời dạy đơn sơ đến lý lẽ thâm sâu đều vì tạo việc lành, dẹp trừ điều ác... Từ xưa, chánh quyền và tôn giáo cùng lập hạnh. Chánh quyền lo việc trị an cho dân chúng. Tôn giáo lo dạy dỗ chúng dân làm lành lánh ác... Phật giáo dạy người trị bịnh trong tâm. Tâm là gốc của muôn ngàn sự vật. Gốc nếu chân chính thì muôn việc đều bình an, trời đất luôn thái bình."

Sắc mặt họ Lý dịu xuống đôi chút, lại hỏi: "Vậy còn tượng đồng tượng gỗ để chi vậy, chỉ tốn hao tiền của thôi chứ gì?"

Vân Công đáp: "Lời Phật là tướng của pháp. Tướng biểu hiện Pháp. Nếu không có tướng biểu hiện thì người dân không thể biết đến Pháp, hoặc họ không khởi tâm cung kính nể sợ. Đối với con người, tâm nếu không cung kính, thì việc ác nào cũng dám làm, tạo thành họa loạn. Những tôn tượng trong chùa chiền ở Trung Quốc thường được tạo bằng đất đá gỗ mộc, cũng giống như các tượng đồng ở các nước Đông Tây. Nói theo thế gian, những tôn tượng này, bất quá chỉ khiến cho chúng dân có chỗ nương tựa, cùng thầm khởi tâm cung kính tín phục, diệu dụng không thể nghĩ bàn, ngôn từ không chi diễn đạt. Nếu thấy các tướng mà không phải tướng, tức thấy đức Như Lai!"

Họ Lý nghe lời phân giải nên rất vừa lòng, liền bảo lính hầu mang trà bánh ra đãi Ngài. Họ Lý lại hỏi: "Nếu thế, tại sao các thầy tu thay vì làm những việc tốt mà lại đi làm các việc kỳ quái, như những kẻ phế thải trong xã hội?"

Vân Công đáp: "Hòa thượng chỉ là danh xưng, có phàm có thánh, sai biệt rõ ràng; không thể thấy một hai ông thầy hư đốn mà lại khinh khi toàn tăng chúng. Không thể phỉ báng Khổng Tử chỉ vì một hai người nho sinh hư hoại. Như nay tiên sinh thống lãnh binh sĩ. Tuy kỷ cương quân đội nghiêm minh mà có phải mỗi mỗi binh lính đều thông minh chánh trực như Ngài đâu! Biển cả bao la vì chứa đựng muôn loài, không phân biệt cá tôm. Tánh Phật pháp rộng như biển cả, không chi không dung chứa. Chư Tăng nhậm thừa lời Phật dạy, hộ trì Tam Bảo, ẩn mật lạ kỳ, âm thầm hóa độ chúng sanh, diệu dụng rõ ràng, không phải là những người phế thải!"

Sắc mặt họ Lý vui lên, lại cùng Vân Công trò chuyện. Chốc lát nét mặt ông nở một nụ cười. Chốc lát ông lại cúi đầu cung kính. Họ Lý giữ Vân Công lại để dùng cơm tối, đốt đuốc đàm đạo; lời nói cùng ví dụ rõ ràng, lý lẽ thâm sâu; bàn luận từ nhân duyên nghiệp quả, cho đến lưới nghiệp giao thức, cùng chúng sanh tương tục.

Họ Lý tiếp nhận hết tất cả lời lẽ và rất cung kính dung mạo oai nghi của Vân Công. Ông chợt thốt ra lời than: "Phật pháp cao siêu như thế mà con lại giết tăng phá chùa. Ôi nghiệp tội nặng vô cùng. Vậy con phải làm sao?"

Vân Công đáp: "Đó chỉ do tánh khí nhất thời thúc đẩy, không phải là tội của Ngài. Xin hãy nguyện sau này, hết sức hộ trì Tam Bảo. Vậy, công đức to lớn biết chừng nào!"

Tướng họ Lý vui mừng hớn hở. Hôm sau, ông theo Vân Công đến chùa Chúc Thánh, sống lẫn lộn với tăng chúng, ăn cơm chay vài ngày. Khi ấy, trên núi bỗng hiện ra một luồng ánh sáng màu vàng, bay từ đảnh núi xuống chân núi. Màu sắc cây cỏ đều biến thành màu vàng kim. Tương truyền trong núi có ba loại ánh sáng: Một là ánh sáng của chư Phật. Hai là ánh sáng màu trắng bạc. Ba là ánh sáng màu vàng. Ánh sáng của chư Phật, hằng năm đều hiện rõ, còn ánh sáng màu trắng bạc và màu vàng thì từ lúc khai sơn đến nay, ít có hiện ra. Họ Lý cảm động vô cùng, nguyện làm đệ tử Vân Công, lại thỉnh Ngài làm tổng trụ trì toàn núi Kê Túc, rồi dẫn quân rời khỏi núi. Việc này, nếu không phải do đức tu hành khổ hạnh của Vân Công thì làm sao chuyển tâm được viên tướng họ Lý trong khoảng sát na!)

Mùa đông, hội Phật giáo Đại Đồng tại Thượng Hải và hội Phật giáo Trung Quốc có sự tranh biện nên đánh điện tín đến Vân Nam, mời tôi lên hòa giải. Đến Thượng Hải, tôi gặp các thầy Thái Hư, Phổ Đường, Nhân Sơn, Đế Nhàn, cùng nhau thương thuyết hòa giải. Tại chùa Tịnh An, chúng tôi thành lập Tổng Hội Phật Giáo. Tôi cùng hòa thượng Kỳ Thiền đi Bắc Kinh, trú tại chùa Pháp Nguyên. Hoà thượng Kỳ Thiền đột nhiên nhuốm bệnh rồi ngồi xếp bằng thị tịch. Tôi đứng ra tổ chức lễ an táng, đem linh cữu về Thượng Hải. Tại chùa Tịnh An, chúng tôi khai mở đại hội thành lập Tổng Hội Phật Giáo cùng làm lễ truy điệu an táng Kỳ Thiền thiền sư. Tôi nhận lãnh công văn hai tỉnh Vân Nam và Quí Châu cùng công văn chi hội hai miền Vân Nam-Tây Tạng. Khi sắp trở về Vân Nam thì Lý Căn Nguyên gỏi thơ giới thiệu đến tỉnh trưởng Vân Nam, tức Thái Tùng Ba, và chư vị quan chức các tỉnh để hộ trì Phật pháp.

(Đại sự trong năm: Mồng chín tháng tám, dân quân khởi nghĩa tại Võ Xương. Tháng mười một, hạ thành Nam Kinh.)

Trung Hoa Dân Quốc nguyên niên, 73 tuổi. (1912/13)

Sau khi trở về Vân Nam, tôi liền thành lập chi hội Phật giáo. Tại cung Vũ Xương, khai mở đại hội Phật giáo. Tôi thỉnh thầy Liễu Trần thiết lập chi hội Phật giáo tại Quý Châu. Vị Phật sống, lạt ma Tây Tạng từ vùng đất xa xôi cùng đến với rất đông vị lạt ma khác. Chúng tôi bàn thảo việc mở trường học Phật giáo, xây nhà thương, lập các hội từ thiện, tổ chức đoàn truyền giáo. Trong năm đó có một việc nhỏ đáng ghi.

Số là có người nông dân, đem một con két biết nói đến phóng sanh. Lúc đầu nó còn ăn thịt, nhưng sau khi được quy y, dạy niệm Phật rồi thì không còn thích ăn thịt nữa. Nó rất thuần thiện, tự biết ra vào, mỗi ngày thường niệm Phật và thánh hiệu Bồ Tát Quán Thế Ấm không ngừng nghỉ. Ngày nọ, nó bị một con diều hâu bắt cắp đi. Lúc bay trên không trung, chỉ nghe tiếng Phật thôi. Tuy chỉ là loài vật, đến lúc báo thân sắp hết, chết sống kề cận, mà không xả bỏ niệm Phật. Chẳng lẽ con người lại không bằng được như con két này sao?

Tôi ở lại chùa Côn Minh qua mùa đông.

(Đại sự trong năm: Mồng một tháng giêng, tiên sinh Tôn Trung Sơn nhậm chức Tổng Thống lâm thời tại Nam Kinh. Tháng hai, vua Tuyên Thống tuyên bố thoái vị. Nhà Mãn Thanh mất. Tham nghị viện đồng cử Viên Thế Khải nhậm chức phó tổng thống lâm thời. Tỉnh trưởng tỉnh Tây Xuyên, Duẩn Xương Hành, định đem quân vào Tây Tạng.)

Dân Quốc năm thứ 2, 74 tuổi. (1913/14)

Vừa thành lập chi hội Phật giáo miền Vân Nam-Tây Tạng, liền ghi nhận tất cả tài sản chùa chiền tự viện trong vùng và dự trù hoạch định những chương trình mới. Những việc trên đòi hỏi phải tường trình với chính quyền địa phương. Có quan trưởng ty dân chánh là La Dong Hiên, thường gây rất nhiều trở ngại, khiến chúng tôi khó tiến hành, làm những việc đã được hoạch định. Khi ấy, tỉnh trưởng Thái Tùng Ba thường đến hòa giải, nhưng không kết quả. Đức Phật sống cùng các hội đoàn địa phương thỉnh tôi đi Bắc Kinh mang việc này trình lên chính quyền trung ương. Gặp quan tổng lý nội các, Hùng Hi Linh, trợ giúp rất nhiều, lại thuyên chuyển La Dong Hiên trở về Bắc Kinh. Nhậm Khả Đăng được đưa về làm dân biểu. Tôi trở về Vân Nam. Họ Nhậm đối với những sự việc liên hệ đến Phật giáo đều tận tình giúp đỡ.

(Đại sự trong năm: Tháng mười, Viên Thế Khải cùng Lê Nguyên Hồng chánh thức được cử làm phó tổng thống.)

Dân Quốc năm thứ 3, 75 tuổi. (1914/15)

Tỉnh trưởng Thái Tùng Ba được vời về Bắc Kinh. Tướng họ Đường được cử thay thế chức tỉnh trưởng.

Tôi muốn về lại núi Kê Túc hưu dưỡng, nên giao chức đại biểu chi hội Phật giáo lại cho các vị khác rồi trở về núi. Vừa về đến, tôi liền lo việc trùng tu chùa Hưng Vân, chùa La Thuyên tại Hạ Dương. Đốc thúc lo liệu công trình xây cất sửa chữa xong, chư sơn trưởng lão tại Hạc Khánh thỉnh tôi đến chùa Long Hoa giảng kinh. Hòa thượng Chánh Tu thỉnh tôi qua chùa Kim Sơn tại Lệ Giang giảng kinh. Giảng xong, tôi ghé thăm động Thái Tử tại Tuyết Sơn, Duy Tân, Trung Điện, A Đôn Tử cùng các danh lam thắng cảnh khác. Lại đến vùng biên giới Trung-Tạng, tham quan ba mươi ngôi chùa Lạt Ma lớn nhỏ.

Năm đó, khi đang giảng kinh tại núi Long Hoa thì bốn huyện trong phủ Đại Lý bị nạn động đất rất kinh hồn. Nhà cửa, phòng xá, thành quách đều bị sập, duy trừ bảo tháp của chùa là không bị chi hết. Lúc chấn động, đất nứt ra, lửa cháy lan tràn, người người tranh nhau mà chạy thoát mạng, nhưng hầu như mỗi tấc đất đều rạn nứt, nên họ bị té lọt xuống. Muốn trèo lên khỏi thì đất liền khép lại, cắt đứt thân mình, chỉ thấy đầu người nằm la liệt trên đất. Bãi tha ma này như địa ngục lửa sôi trong kinh Phật, thật rất thê thảm, không dám nhìn xem. Trong thành có khoảng một ngàn căn nhà, hầu hết đều bị nạn động đất, chỉ còn sót lại vài căn. Khi ấy, có một tiệm kim hoàn của hai gia đình: Một là họ Triệu, tên Vạn Xương Hiệu. Hai là họ Dương, tên là Thâm Nhiên Hiệu. Lửa cháy đến tiệm của họ lại dừng. Cửa tiệm chưa hề bị hư hoại vì nạn động đất. Trong mỗi gia đình, có trên mười người. Tất cả đều được bình an vô sự. Vài người trong vùng biết đến hai gia đình này. Trãi qua bao đời, họ đều ăn chay niệm Phật. Đấy là những người lành thiện, mẫu mực mới tránh được những thiên tai hoạn nạn như thế. Tôi thật rất vui mừng.

(Đại sự trong năm: Đại chiến Ấu Châu bùng nổ.)

Dân Quốc năm thứ 4, 76 tuổi. (1915/16)

Mùa xuân, sau kỳ truyền giới, tại huyện Đặng Châu, thân sĩ họ Đinh, là bậc học giả triều Thanh, có con gái tuổi khoảng mười tám, chưa lập gia đình. Ngày nọ, cô đột nhiên té xuống, bất tỉnh nhân sự. Toàn thể gia đình kinh hoàng sợ hãi, không biết phải làm gì. Lát sau, cô tỉnh dậy, nói giọng đàn ông, chỉ thẳng và mắng cha: "Này tên họ Đinh! Mi cậy thế, vu oan cho ta là tướng cướp. Mi phải chịu trách nhiệm về cái chết của ta. Ta là người Tây Xuyên, phủ Đại Lý, họ Đổng. Ngươi có nhớ ra không? Hôm nay, ta cáo bạch trước điện Diêm Vương, trả mối thù tám năm về trước!"

Nói xong, cô ta lấy dao rượt họ Đinh. Họ Đinh sợ hãi, chạy trốn nơi khác, không dám về nhà. Mỗi ngày, quỷ đến một lần. Khi đến, liền nhập vào thân cô con gái, khiến điệu bộ cô trở nên rất hung hăng. Mọi người trong nhà đều lo buồn, lại làm liên lụy đến cả hàng xóm. Khổ thật!

Bấy giờ, trên núi Kê Túc có hai vị tăng là Biểu Cầm và Tố Chân đến huyện Đặng Châu, đi ngang qua nhà họ Đinh. Lúc ấy, quần chúng bu quanh nhà rất đông vì quỷ lại nhập vào thân cô gái và đang hiện tướng trạng hung dữ. Hai vị tăng này nói với quỷ: "Ngươi chớ nên làm dạng mạo như thế, khiến dân địa phương không được an ổn!"

Quỷ đáp: "Các thầy là người tu hành chớ có lắm chuyện!"

Tăng nói: "Vâng, dĩ nhiên là không phải chuyện của chúng tôi, nhưng vì thầy chúng tôi thường dạy rằng oan gia nên xả bỏ, chẳng nên kết thêm. Càng kết thì càng thâm sâu. Lúc nào mới giải quyết cho xong được?"

Quỷ ngừng chốc lát rồi nói: "Thầy của chư vị là ai?"

Tăng đáp: "Thầy chúng tôi là lão hòa thượng Hư Vân, trụ trì chùa Chúc Thánh."

Quỷ nói: "Tôi cũng có nghe đến danh Ngài, nhưng chưa từng gặp mặt. Ngài có thể truyền giới cho tôi được không?"

Tăng đáp: "Đại từ đại bi, cứu độ tất cả khổ não! Sao Thầy chúng tôi không truyền giới cho ngươi được?"

Tăng lại khuyên quỷ nên bảo họ Đinh xuất tiền ra làm lễ siêu độ.

Quỷ nói: "Hắn giết người hại mạng. Tôi không muốn dùng tiền của hắn!"

Tăng đáp: "Như vậy, nếu người địa phương gom góp tiền lại, cầu siêu cho ngươi, để họ được sống an ổn. Vậy được không?"

Quỷ nói: "Thù này nếu không báo, tôi hận mãi không nguôi. Oán ân tương báo, làm sao giải hết? Để tôi xuống hỏi lại Diêm Vương coi. Ngày mai, chư vị hãy đến đây đợi tôi!"

Quỷ xuất ra. Cô gái liền tỉnh dậy, nhìn thấy mọi người bao vây xung quanh, mắc cở, bỏ chạy vào nhà. Hôm sau, quỷ đến sớm hơn hai vị tăng, nên trách móc rằng sao không giữ lời hứa đến đúng giờ. Tăng bảo rằng vì có công việc nên mới đến trể.

Quỷ nói: "Tôi đã hỏi qua Diêm Vương. Ngài trả lời rằng chùa Chúc Thánh là đạo tràng trang nghiêm, thanh tịnh, nên cho phép đi, nhưng chư vị phải đưa tôi đến đó."

Hơn cả chục thân sĩ và dân chúng vùng địa phương cùng hai vị tăng đi đến chùa. Chiều đến, chúng tôi bàn việc giải quyết vấn đề. Hôm sau, chùa thiết đàn tụng kinh thuyết giới. Kể từ đó, gia đình họ Đinh được bình yên trở lại. Dân chúng, sĩ thứ huyện Đằng Châu thường cùng nhau đến chùa lễ bái.

(Đại sự trong năm: Tháng giêng, Nhật Bổn ép bức Trung Quốc thừa nhận hai mươi mốt điều ước. Tháng chạp, Viên Thế Khải tuyên bố đế chế, đổi hiệu là Hồng Hiến nguyên niên.)

Dân Quốc năm thứ 5, 77 tuổi. (1916/17)

Từ lúc cư sĩ Cao Vạn Bang cúng dường tượng Ngọc Phật đến nay đã vài năm. Tôi trở lại Nam Dương để thỉnh tượng Phật về. Nghe có nhiều người dân thuộc sắc tộc khác Hán tộc tin tưởng Phật pháp, nên tôi đi qua tham quan các vùng đất của họ như Thường Đạt Miến, Oa Tán, Lạp Tán, rồi lại trở về Ngưỡng Quang lễ tháp Đại Kim, thăm Cao cư sĩ. Tại chùa Long Hoa, giảng kinh xong, tôi đón tàu đi Tân Gia Ba. Tàu đến cảng Tân Nhai, một viên cảnh sát người Anh nói: "Hiện nay tại Trung Quốc, đại Tổng Thống đang thiết lập đế chế, ra lịnh bắt giữ tất cả những tên nổi loạn. Mọi người Hoa lục địa, qua đến đây, phải được kiểm soát chặt chẽ, rồi sau mới cho lên bờ."

Vài trăm người được đưa đến ty cảnh sát tra hỏi. Sau đó, từ từ họ đều được thả ra hết, nhưng trù nhóm người chúng tôi, gồm có sáu vị tăng. Họ bảo rằng chúng tôi thuộc đảng cách mạng, nên giữ lại. Họ trói chúng tôi lại, rồi đánh đập, đem phơi nắng, không cho ăn uống, không cho đi đại tiểu tiện, không cho cử động, nếu nhúc nhích liền bị đánh; cứ như thế từ sáu giờ sáng cho đến tám giờ tối. May thay, có đệ tử quy y của tôi là Hồng Thịnh Dương và ông quản lý họ Đổng, nghe biết tình cảnh của chúng tôi, nên đến ty cảnh sát bảo lảnh, nhưng phải đóng tiền thế chân là năm ngàn đồng cho mỗi người, rồi mới được thả ra. Sau đó, chúng tôi được đưa về thương hiệu Thịnh Dương, lưu trú qua năm mới. Hai vị cư sĩ này cũng giúp tôi việc mang tượng Ngọc Phật về nước.

(Đại sự trong năm: Viên Thế Khải mất. Lê Nguyên Hồng lên nhậm chức Tổng Thống.)

Dân Quốc năm thứ 6, 78 tuổi. (1917/18)

Mùa xuân, từ đình Quán Ấm, tôi vận chuyển tượng Phật về nước, mướn tám người phụ giúp mang về núi Kê Túc. Tiền mướn họ khoảng cả ngàn đồng. Đoàn chúng tôi phải đi qua các vùng đồi núi hẻo lánh, cheo leo chập chùng, chưa từng có dấu chân người. Đi như thế cả vài mươi ngày. Ngày nọ, lúc đến núi Dã Nhân, những người khuân vác nghi rằng trong tượng Ngọc Phật có vàng bạc châu báu hay ngân phiếu, nên họ đặt tượng Phật xuống, nói rằng không còn sức để khiêng tượng Phật nữa, lại đòi trả tiền thêm tiền công. Tôi cố an ủi, nhưng họ càng làm ồn ào, hung tợn thêm. Biết không còn cách nào để làm cho họ dịu xuống, nhìn bên đường thấy tảng đá to, nặng khoảng vài trăm cân, tôi bảo bọn họ: "Tảng đá này cùng tượng Phật, vật nào nặng hơn?"

Họ đáp: "Chắc chắn là tảng đá nặng hơn tượng Phật hai ba lần."

Tôi liền dùng hai tay nâng tảng đá lên cả thước. Bọn họ trố mắt thè lưỡi và nói: "Lão Hòa Thượng này thật là Phật sống!"

Từ đó, họ không còn dám nói năng chi hết, khiêng tượng Ngọc Phật đi thẳng về núi. Đến núi, tôi cũng thưởng thêm tiền cho họ. Tôi tự biết sức mình không thể nâng nỗi tảng đá đó, mà thật ra chỉ nhờ thần lực của Long Thần hộ pháp thôi.

Sau đó tôi đi Đằng Xung, Bảo Sơn giảng kinh tại các chùa viện.

Dân Quốc năm thứ 7, 79 tuổi. (1918/19)

Đề đốc Đường Kế Nghiêu phái tùy viên đem thơ đến, ra lịnh cho quan tri huyện Tân Châu đồng lên núi, thỉnh mời tôi ba lần. Bất đắc dĩ lắm, tôi mới đáp lời mời của ông ta để đi Côn Minh. Khi ấy, đường lộ rất nguy hiểm, nên quan huyện phái quân lính đến hộ tống. Tôi từ chối, chỉ đem theo đệ tử là Tu Viên. Một bộ tăng y cùng một bình bát, chúng tôi khởi hành. Khi đến Sở Hùng, gặp loạn quân, họ khám xét kỹ càng. Vì tìm thấy lá thơ của đề đốc họ Đường, nên họ liền đánh tôi. Tôi nói: "Chư vị đánh tôi làm gì. Xin cho tôi gặp tướng thủ lãnh của chư vị."

Họ liền đưa tôi đến gặp hai thủ lãnh, Dương Thiên Phúc và Ngô Học Hiển. Họ hỏi: "Thầy là ai?"

Tôi đáp: "Tôi là hòa thượng núi Kê Túc."

Hỏi: "Thầy tên chi?"

Đáp: "Tôi tên Hư Vân."

Hỏi: "Thầy lên tỉnh lỵ có việc gì?"

Đáp: "Tôi lên tỉnh lỵ để làm Phật sự."

Hỏi: "Làm Phật sự cho ai?"

Đáp: "Tôi vì nhân dân mà làm Phật sự. Cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho dân chúng được tiêu trừ thiên tai hoạn nạn."

Hỏi: "Họ Đường là thằng giặc, kẻ tồi bại. Tại sao Thầy lại giúp hắn. Thầy qua lại với hắn. Vậy Thầy cũng là người tồi bại!"

Đáp: "Ngài nói họ Đường là người xấu, thật rất khó xác định!"

Hỏi: "Tại sao khó xác định?"

Đáp: "Nói về việc tốt thì mọi người đều tốt cả. Nói về việc xấu thì mọi người đều xấu hết."

Hỏi: "Thầy nói cái gì?"

Đáp: "Giả sử Ngài cùng họ Đường vì dân vì nước mà tạo phước, cho đến các thuộc hạ của chư vị cũng thế, thì ai ai cũng là người tốt hết. Nói về việc xấu, Ngài bảo họ Đường là kẻ tồi bại, mà ông ta cũng bảo rằng các Ngài là kẻ tồi bại. Chư vị đều có thành kiến, như nước với lửa, cùng đem quân giết hại lẫn nhau, lại sát hại nhân dân. Như vậy có phải chư vị đều là người xấu hết phải không? Nhân dân theo bên tả là giặc, mà theo bên hữu là cướp. Vậy đáng thương họ lắm không?"

Cả hai thủ lãnh nghe tôi phân trần đều cười và bảo: "Thầy nói thế không sai. Vậy phải làm thế nào mới đúng?"

Tôi đáp: "Theo ý tôi thì chư vị đừng nên đánh nhau nữa. Xin hãy hòa giải."

Họ Ngô nói: "Thầy bảo chúng tôi phải đầu hàng ư?"

Tôi đáp: "Không phải như thế! Tôi nói rằng chư vị hãy nên hòa giải kia. Chư vị đều là những người hiền sĩ của đất nước. Nếu muốn đem hòa bình an lạc lại cho quốc gia, việc quan trọng trước nhất là chư vị hãy dẹp bỏ thành kiến, để cùng nhau an dân cứu nước. Đó có phải là việc tốt lắm không?"

Họ Ngô đáp: "Vậy phải bắt đầu như thế nào?"

Tôi đáp: "Bắt đầu với họ Đường."

Họ Ngô nói: "Không thể thương lượng với hắn được. Hắn giết hại và giam cầm quân chúng tôi rất nhiều. Phải nên báo thù. Nói việc ra hàng, thì làm sao chấp nhận được."

Tôi đáp: "Tiên sinh chớ hiểu lầm! Tôi nói Ngài nên thương thuyết với họ Đường, vì hiện giờ ông ta là quan của chính quyền trung ương, có quyền uy trong tay. Tương lai Ngài cũng có thể làm quan vậy. Việc ông ta giết nhiều người của Ngài, để khi đến Côn Minh, tôi sẽ làm Phật sự, cầu siêu cho các âm hồn chiến sĩ trận vong. Đối với những người đang bị nhốt, tôi sẽ xin ông ta thả ra hết. Chư vị nếu không lắng nghe lời tôi giải bày, cứ gây chiến tranh với nhau, thì thắng bại khó bàn. Tuy có quân, nhưng so với họ Đường thì chư vị không thể sánh bằng. Ông ta có quân lính, tiền tài lương thực, và được chính quyền trung ương hỗ trợ. Uy thế của ông ta mạnh hơn chư vị rất nhiều. Hôm nay, không phải tôi đến đây khuyên chư vị ra hàng, nhưng vì thuận tiện cùng có chút duyên lành, nên mới tỏ rỏ sự tình. Lại nữa, tôi chỉ ước mong đất nước được thanh bình, nhân dân an lạc, để người ngoại quốc không khinh dân tộc mình."

Họ Ngô và họ Dương đều cảm động, lại ủy thác tôi làm đại biểu. Tôi nói:

"Không dám đâu! Xin chư vị hãy viết một tờ hòa ước. Nếu có cơ hội, tôi sẽ đưa thơ này và thương thuyết với họ Đường."

Hai họ Ngô và Dương nghe xong, liền cùng nhau luận bàn cả ba ngày, rồi viết ra sáu điều hòa ước:

1/ Trước khi hòa giải, hãy thả hết tất cả người của chúng tôi.

2/ Không thể giải tán quân binh của chúng tôi.

3/ Không được hủy bỏ chức vụ binh quyền của chúng tôi.

4/ Quân đội của chúng tôi phải do chúng tôi chỉ huy, tiếp quản.

5/ Không được truy xét tội lỗi chiến tranh giữa hai quân đội lúc trước.

6/ Sau khi hòa giải, phải đối xử bình đẳng với quân của hai bên.

Tôi nói: "Những hòa ước này, chắc sẽ không thành vấn đề gì đâu! Đợi tôi thương thuyết với họ Đường, rồi sau đó sẽ đem công văn và phái tùy viên đến đón tiếp."

Họ Ngô nói: "Thật làm phiền Ngài. Sự việc nếu thành, chúng tôi cảm ơn Ngài rất nhiều."

Tôi đáp: "Xin đừng cảm ơn! Tôi làm việc này, chẳng qua chỉ do thuận tiện mà thôi."

Họ Ngô và Dương ưu đãi tôi rất trịnh trọng. Tối đến chúng tôi lại đàm đạo những chuyện khác, rất vui vẻ. Họ muốn giữ tôi lại, nhưng vì chuyện gấp, nên hôm sau tôi liền từ giã. Ắn sáng xong, họ cúng dường tiền lộ phí, thức ăn, xe ngựa, đồ vật, lại phái người đi theo hộ tống. Tôi khước từ hết cả, chỉ nhận đồ ăn để đi đường. Ra khỏi doanh trại khoảng nửa dặm, đột nhiên có một nhóm người chạy đến, quỳ ngay trước mặt, cúi đầu xuống đất. Nhận ra họ chính là những quân sĩ đánh tôi hôm qua. Họ đồng thanh thưa: "Xin Bồ Tát tha lỗi cho chúng con."

Tôi an ủi họ và bảo rằng việc ác chớ làm, hãy nên làm việc lành. Tất cả họ đều cảm động, rơi lệ, rồi đi khỏi.

Khi đến Côn Minh, họ Đường phái tùy viên đến đón tiếp, đưa tôi về đài Chúc Long, chùa Viên Thông. Tối đến, ông mời tôi vào dinh trại gặp mặt. Ông nói: "Đã bao năm không được gặp Ngài. Trong thời gian ấy, bà nội, cha mẹ, vợ, anh em, đã lần lượt qua đời. Tâm con không an. Cộng thêm, bọn cướp trong vùng địa phương luôn hoành hành, làm dân lành điêu đứng, tướng sĩ thương vong, cô hồn đói rét. Vì thế, con nghĩ đến ba việc: Thứ nhất là tổ chức lễ cầu nguyện chư Phật gia bị cho dân chúng được tiêu trừ tai nạn, và cầu siêu cho các vong hồn vất vưởng. Thứ hai là kiến lập một đại tùng lâm tại chùa Viên Thông để hoằng dương Phật pháp. Thứ ba là xây một trường đại học đạo đức thiện lành để giáo dục thanh niên. Việc thứ ba đã có người của con lo liệu, còn việc thứ nhất và thứ hai, ngoài Ngài ra thì không ai có thể đảm nhận nỗi."

Tôi đáp: "Ngài phát hoằng đại nguyện, trên thế gian này thật khó có được, vì đây là sự phát tâm của Bồ Tát. Lão tăng đây trí huệ cạn cợt, không đủ sức để giúp Ngài hết tất cả. Việc kiến lập tùng lâm, trong nước có rất nhiều chư vị cao tăng hiền đức. Lại nữa, chùa Viên Thông không phải là một đại tùng lâm vì chỉ có thể chứa được khoảng vài trăm người thôi. Xin Ngài hãy xem xét lại. Việc lập đàn tràng cầu nguyện, không đến nỗi lâu lắm, tôi có thể giúp Ngài được."

Họ Đường nói: "Ngài bảo rằng chùa Viên Thông không phải là một đại tùng lâm, thật rất đúng. Xin hãy gác lại việc này. Mai mốt sẽ bàn sau, còn việc lập đàn tràng thì như thế nào?"

Tôi đáp: "Tâm Phật là một thể, cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn. Lập đàn tràng là vì nước vì dân, cùng làm lợi ích đến cõi u minh. Theo ngu kiến của lão tăng, trước khi làm phật sự, xin Ngài ba việc: Thứ nhất là khi lập đàn tràng, trong suốt ngày, cấm dân chúng trong huyện không được giết hại loài vật. Thứ hai là hãy nên thả tù nhân ra. Thứ ba là chẩn tế cứu giúp nạn nhân chiến tranh."

Họ Đường đáp: "Việc thứ nhất và thứ ba có thể làm được, còn việc thứ hai thì do bộ hành pháp của chính quyền trung ương quyết định. Con không thể tự ý làm."

Tôi nói: "Việc nước rất nhiều. Chính quyền trung ương khó mà lo hết. Vấn đề này, xin Ngài hãy bàn thảo với bộ hành pháp trong tỉnh thì có thể làm được. Nếu thế thì chư thiên mới ban phước lành đến cho nước nhà."

Họ Đường gật đầu chấp thuận.

Tôi nói thêm: "Tôi vẫn còn một việc muốn thưa với Ngài (tôi liền kể lại việc gặp hai thủ lãnh họ Ngô và Dương trên đường). Xin Ngài hãy thả những tù nhân đó ra, để cảm hóa họ trở về với mình."

Nghe rõ sự tình, họ Đường rất vui mừng, liền bàn thảo việc thả tù nhân và hòa giải chiến tranh.

Gần cuối năm, cư sĩ Ấu Dương, Cảnh Vô, Lữ Thu Dật, từ Thượng Hải đến, quyên góp tịnh tài cho Phật học viện Chi Na, cùng trú tại chùa Viên Thông. Họ thỉnh mời tôi giảng luận Nhiếp Đại Thừa Khởi Tín. Sau đó, tôi ở lại Côn Minh qua năm mới.

(Đại sự trong năm: Tháng chín, chiến tranh Châu Ấu chấm dứt. Từ Thế Xương nhậm chức Tổng Thống.)

Dân Quốc năm thứ 8, 80 tuổi. (1919/20)

Mùa xuân, tại Côn Minh tôi lập đàn tràng Thủy Lục Không nơi chùa Trung Liệt Từ. Khi pháp hội vừa khai mở thì chánh quyền ân xá tù tội, cấm nhân dân giết hại loài vật. Trong kỳ hội lễ, họ Đường phái tùy viên đến gặp hai thủ lãnh họ Ngô và Dương để bàn việc hòa giải. Sau đó, họ Đường ủy nhiệm cho hai họ Ngô và Dương làm trại trưởng. Từ đó, dân vùng địa phương được sống an ổn. Hai vị họ Ngô và Dương, trung thành trước sau không đổi. Có điều lạ kỳ là khi pháp hội vừa khai mở thì tất cả ánh lửa đèn đuốc đột nhiên biến dạng như hoa sen, màu sắc thay đổi rất nhiều. Chư thiện nam tín nữ, tùy duyên đến xem. Ngày bốn mươi chín, khi pháp hội vừa xong, lúc làm lễ tiển chư Thánh chúng, thì trên trời hiện ra tràng phang bảo cái, bay lẫn trong mây. Nhân dân trong thành thấy rõ, nên quỳ xuống lễ bái. Xong lễ cầu nguyện, họ Đường thỉnh tôi đến nhà tụng kinh cho thân nhân đã mất. Chính ông cũng thấy những điềm lành khác, nên tín tâm càng tăng. Tất cả người trong gia phủ đều thọ giới quy y.

Tôi ở lại Côn Minh qua năm mới.

(Đại sự trong năm: Tiên sinh Tôn Trung Sơn đổi tên đảng cách mạng Trung Hoa thành Trung Hoa Quốc Dân Đảng.)

Dân Quốc năm thứ 9, 81 tuổi. (1920/21)

Họ Đường vẫn thỉnh tôi làm lễ Thủy Lục Không. Lễ xong, tôi tiếp tục giảng kinh. Chùa Hoa Đình ở Tây Sơn, Côn Minh là một ngôi chùa cổ xưa trong nước. Phong cảnh nơi đây rất đẹp. Trong chùa, không có vị thầy nào trụ trì cả. Bấy giờ, có các thầy trong vùng lại muốn bán chùa cho người Tây Phương để làm câu lạc bộ. Chánh quyền địa phương đã đồng ý phê chuẩn. Tôi rất lấy làm tiếc, nên nói với họ Đường rằng hãy nên cố bảo tồn ngôi chùa cổ kính, thuộc hàng danh lam thắng cảnh trong nước. Họ Đường chấp thuận lời yêu cầu của tôi. Ông bí mật bàn với các vị niên trưởng trong vùng như Vương Cửu Linh, Trương Chuyết Tiên. Họ làm một buổi cơm chay, mời tôi đến dự. Trong lúc dùng cơm, họ dâng lên một thiệp hồng, thỉnh mời tôi làm trụ trì chùa Hoa Đình để trùng hưng lại ngôi chùa này. Họ xưng thỉnh như thế ba lần. Tôi liền chấp nhận.

Cuối mùa đông, họ Đường được thuyên chuyển qua nhậm chức tại Hồng Kông.

(Lời thêm của người biên: Lão hòa thượng Hư Vân đầu tiên trụ trì chùa Ngưỡng Dương, Tây Trúc, tức Hộ Quốc, Chúc Thánh thiền tự. Kế đến, Ngài kiến lập chùa Nhân Thắng ở Côn Minh, chùa Lâu Thiền, chùa Tùng-ẩn ở tỉnh Viên Vân, núi Bích Kê.

Phụ chú: Mùa thu năm đó, tướng Cố Phẩm Trân cùng một số tướng lãnh khác tính đoạt quyền của Đường Kế Nghiêu. Họ Đường có hơn hai mươi sư đoàn, định giao chiến. Ông ta vì cung kính tin tưởng nơi Vân Công nên nửa đêm, thay đồ đổi dạng, đến chùa gặp và cung thỉnh Ngài bàn kế hoạch. Vân Công nói: "Ngài thâu phục được lòng dân tỉnh Vân Nam mà chưa được lòng hết tất cả tướng sĩ. Nếu dùng vũ lực thì khó phân thắng bại giữa hai quân đội, mà người ngoại quốc có thể lợi dụng cơ hội này để xâm chiếm Vân Nam. Tốt nhất là Ngài hãy nên tạm bỏ hư danh để bảo tồn lực lượng, chờ duyên lành ngày sau."

Họ Đường chấp nhận, nên sau đó giả bộ nhường chức cho Cố Phẩm Trân. Đêm ba mươi tháng chạp, ông bỏ Vân Nam đi qua Việt Nam rồi quay về Hồng Kông. Việc này, khi lược thuật trong quyển biên niên, Vân Công không nói rõ chi tiết. Kẻ biên chép lại quyển biên niên, mười năm trước lúc theo hầu, Ngài đã từng kể chuyện này.)

Năm đó, cư sĩ Trương Chuyết Tiên đem hai con ngỗng đến chùa Vân Lâu để phóng sanh, và thỉnh tôi thuyết giới cho chúng. Trong lúc thuyết giới, hai con ngỗng cúi đầu xuống, im lặng, giống như đang thọ nhận giới pháp. Thuyết giới xong, chúng ngẫng đầu lên, tỏ vẻ vui mừng. Từ đó, chúng thường theo đại chúng đồng lên chánh điện. Đại chúng niệm Phật; chúng lắng nghe. Đại chúng đi nhiễu Phật; chúng cũng đi theo sau nhiễu Phật. Cứ như thế mà không đổi. Người người đều mến thích chúng. Qua ba năm, ngày nọ, con ngỗng cái lên trước chánh điện, vỗ cánh ba lần, ngưỡng đầu lên ngắm nhìn tượng Phật rồi chết, nhưng dạng trạng vây lông vẫn không biến đổi. Sau đó đại chúng đặt nó vào thùng gỗ rồi thiêu. Con ngỗng đực còn lại, kêu rống không ngừng, dạng như không muốn rời xa bạn nó. Nó không ăn uống cả vài ngày, rồi cũng lên chánh điện, đứng ngắm nhìn tượng Phật, trương hai đôi cánh ra, vỗ một lần rồi chết. Đại chúng cũng đặt xác nó vào một thùng gỗ nhỏ để thiêu, cùng đặt tro của hai con ngỗng này chung một chỗ.

Dân Quốc năm thứ 10, 82 tuổi. (1921/22)

Mùa xuân, Cố Phẩm Trân lên làm đô đốc tỉnh Vân Nam. Tháng hai, trời đổ mưa to không ngớt. Trong thành, phải dùng thuyền mà đi. Mỗi ngày, trên lầu các cửa thành, quân lính dùng súng thần công để bắn tan đi những đám mây lớn, nhưng không hiệu quả. Đến cuối tháng bảy, trời lại hạn hán cả vài tháng. Đến mùa đông, nước sông cạn dần cho đến đáy. Nạn hạn hán như vầy, chưa từng xảy ra ở tỉnh Vân Nam. Trong mùa thu, bịnh bạch hầu lan tràn khắp tỉnh, khiến bịnh chết cả ngàn người. Khi ấy, tôi đang trú ngụ tại chùa Hoa Đình (sau đổi tên là Vân Lâu), cùng thượng nhân Câu Hành đồng trụ, gặp năm xấu này, mọi công việc Phật sự đều tạm đình chỉ. Sáng nọ, chúng tôi đồng đi vào thành, đến trưa mới về. Trên đường, lúc tạm dừng chân nghỉ ngơi bên dưới một tàng cây, chúng tôi phát hiện một gói đồ lớn. Mở ra xem thì thấy các đồ vật nữ trang quý báu như vòng xuyến, vàng ngọc, trâm vàng, chuỗi vàng, đồng hồ, tám ngàn đồng tiền tỉnh Vân Nam, hơn chục ngàn tiền nước Pháp. Xem xong, chúng tôi gói lại, ngồi chờ chủ nhân đến nhận. Trời đã chập tối, đường về chùa lại quá xa, nên chúng tôi mang gói đồ này trở về, định hôm sau sẽ trở lại, và đăng báo tìm chủ nhân.

Lúc băng qua sông, sắp đến chân núi, chúng tôi chợt thấy một cô gái vừa nhảy xuống sông, rồi từ từ chìm xuống. Tôi liền nhảy xuống cứu cô ta lên bờ, biết được rằng cô ta muốn tự tử. Chúng tôi dẫn cô ta về chùa, cho y phục cùng thức ăn, nhưng không chịu ăn, chỉ lấy y phục thôi. Chúng tôi ân cần an ủi khuyên nhủ; hồi lâu, cô ta nói rằng cô vốn họ Chu, người Trường Sa, sanh trưởng ở Vân Nam. Mười tám năm về trước, cha bán thuốc tại đường Phúc Xuân trong thành, chỉ sanh được cô. Lớn lên, được viên tướng vùng địa phương họ Tôn, đến nhà cầu hôn với cô, tự nói là chưa vợ, nên cha mẹ cô đều tin tưởng. Hôn lễ xong, đi về nhà chồng thì mới biết được là ông ta đã có vợ. Biết mình bị lừa, thì đã quá trể. Vợ ông tánh khí hung dữ, thường đánh đập cô rất tàn nhẫn. Cha chồng cố hòa giải nhưng vẫn không được. Cha mẹ cô lại sợ thế lực của tướng họ Tôn nên không làm gì được. Cho đến hôm nay, cầu sống không được, cầu chết cũng không xong. Vì vậy, cô bỏ nhà trốn đi, đem theo một ít tư trang tài vật, muốn đến núi Kê Túc cầu xuất gia với tôi. Do không biết đường đến núi, nên cô ta đi lạc cả hai ngày. Lại bị mất gói đồ, nên cô ta chỉ còn chọn con đường chết. Do đó mới nhảy xuống sông tự tử. Tôi bảo cô ta miêu tả lại những vật dụng đã bị mất. Cô ta kể rõ những vật dụng bị mất, thật đúng như những vật mà chúng tôi đã nhặt được bên tàng cây lớn. Tôi trả lại gói đồ và bảo các thầy trong chùa thuyết đại ý quy y Tam Bảo cho cô nghe. Hôm kế, báo tin cho họ Chu biết. Hai nhà họ Tôn và họ Chu cùng với gia quyến cha mẹ thân thích, cả thảy hơn ba mươi người, đồng đến chùa hòa giải.

Khi ấy, tôi thuyết pháp cho họ nghe. Sau đó, họ Tôn, chồng lẫn vợ đồng quỳ trước chánh điện, lập thệ sám hối những tội lỗi trước, rồi ôm nhau mà khóc. Người đến thăm chùa rất cảm động. Cả hai họ đều ở lại chùa ba ngày. Trai gái, già trẻ, đều phát tâm quy y Tam Bảo, thọ giới, rồi trở về nhà.

Dân Quốc năm thứ 11, 83 tuổi. (1922/23)

Năm đó, tôi sửa sang lại chùa Hoa Đình (tức chùa Vân Lâu). Phía tây hồ Côn Minh có núi Bích Kê, là nơi vị thái tử thứ hai của vua A Dục ở Ần Độ có ghé qua. Ông thấy một đàn chim phượng hoàng bay ngang qua, nên quyết định ở lại tu hành cần mẫn, rồi đạt đạo, lấy hiệu là Thần Bích Kê, nay cũng chính là tên núi. Các đỉnh núi giống như mái che, sau này được gọi là chùa Hoa Đình. Đời nhà Nguyên có thiền sư Huyền Phong đắc pháp dưới tòa của quốc sư Trung Phong tại Tây Thiên Mục, đến đây khai sáng núi, lấy hiệu là Viên Giác. Người sau lại đổi tên núi là Hoa Đình.

Năm trước, khi ngôi chùa cổ này sắp bán cho người ngoại quốc, tôi liền nói với họ Đường chuộc lại. Sau đó ông thỉnh tôi làm trụ trì, thúc đẩy việc sửa chữa. Dưới lòng đất chùa, đào lên, nhặt được một viên đá cẩm thạch, có khắc chữ "Vân Lâu", niên đại Nhân Diệt. Đá cẩm thạch được đặt trên tháp Hải Hội của chúng xuất gia. Thái sử họ Trần cúng dường vườn hoa của trường nông lâm nghiệp, mà khi trước, thuộc về khu đất của chùa Thắng Nhân.

Tôi xây hạ viện chùa Vân Lâu nơi đó, lại kiến lập điện đường phòng ốc, cùng sửa chữa chùa Thái Hoa, chùa Tùng-ẩn. Dưới chân núi, xây chùa Chiêu Đề, đổi tên thôn thành thôn Chiên Đề. Sau lưng núi, có một khu rừng rậm, nơi chúng tôi thường đến đốn củi để mang về chùa. Hôm nọ, chợt có người nhặt được một gói đồ lớn, mà trong đó có vàng bạc, cùng hơn hai trăm ngàn đồng. Tôi định đem giao cho chánh phủ để dùng vào việc cứu tế dân nghèo, nhưng đại chúng ngăn cản, bảo là hiện tại chùa đang thiếu thốn, nên giữ lại cho chùa. Tôi bảo: "Theo luật Phật chế thì người xuất gia không được giữ đồ vật rơi rớt. Nay nhặt được mà muốn giữ, tức là phạm giới. Đồ này là vật phi nghĩa, không thể giữ lại cho chùa được. Chư vị có thể đem tiền của mình mà cúng dường Tam Bảo, để trồng vào ruộng phước. Người xuất gia có thể đi hóa duyên nếu cần. Tôi không dám lấy vật nhặt được mà đem vào làm của cho chùa."

Đại chúng nghe thế, liền đồng ý đem gói đồ này cho chính phủ để cứu giúp dân nghèo.

Hai năm liền, tỉnh Vân Nam liên tiếp bị nạn hạn hán, dân chúng đói rách bịnh khổ. Bịnh bạch hầu lan tràn, khiến vô số người chết. Từ tướng sĩ đến dân chúng, không ai không nghĩ đến ân đức họ Đường, nên cùng nhau bàn luận, thỉnh mời họ Đường trở về Vân Nam nhậm chức đô đốc.

Sau khi trở về nhậm chức, họ Đường đi thẳng đến chùa, thỉnh tôi lập đàn tràng cầu mưa. Tôi thiết lập đàn tràng cầu nguyện. Trong ba ngày, trời đổ mưa to, (lúc ấy là tháng năm, không phải mùa mưa), nhưng bịnh bạch hầu vẫn lan tràn. Họ Đường nói: "Con nghe rằng nếu trời đổ tuyết thì bịnh bạch hầu này sẽ hết, nhưng nay mùa xuân sắp hết, làm thế nào để có tuyết rơi?"

Tôi nói: "Tôi sẽ thiết lập đàn tràng nữa. Ngài hãy thành tâm cầu nguyện!"

Họ Đường ăn chay giữ giới. Tôi tụng kinh lễ sám. Qua hôm sau, tuyết rơi dầy cả thước. Bịnh bạch hầu đột nhiên chấm dứt. Ai ai cũng đều tán thán Phật pháp thật không thể nghĩ bàn.

Dân Quốc năm thứ 12, 84 tuổi. (1923/24)

Trong năm, lúc sửa chữa tháp Hải Hội cho bảy chúng xuất gia, vừa đào nền móng sâu xuống vài tấc thì phát hiện ra một cái hòm, trên có ghi: "Phu nhân họ Lý, người Phiên Dương, đời Gia Tỉnh thứ tư (1525-26)." Mở nắp hòm ra, thấy gương mặt bà hồng hào như còn sống. Lúc hỏa táng, ngọn lửa biến thành hình hoa sen. Sau đó, tro của bà được đặt vào tháp Uu Bà Di. Tất cả ngôi mộ bên phải của chùa đều được hỏa táng. Tro được đặt hết vào trong tháp Hải Hội. Giữa những ngôi mộ, có một bia tháp của tỳ kheo Đạo Minh, niên hiệu Đạo Quang đời Thanh (1821-50). Tỳ kheo Đạo Minh lúc nhỏ hai chân bị tàn tật, cha mẹ gởi vào chùa tu. Sau khi thọ giới cụ túc, thầy phát tâm lạy Đại Bi Sám Pháp, trì niệm thánh hiệu Bồ Tát Quán Ấm. Đêm nọ, mơ thấy Bồ Tát Quán Ấm hiện ra bảo hãy đi tắm. Tắm xong, không thấy Bồ Tát đâu hết, mà hai chân cảm thấy rất khỏe khoắn. Hôm sau, khi bước xuống giường, hai chân đi được như bình thường. Từ đó, trí huệ Thầy ngày một tăng trưởng, nên cả đời luôn trì thánh hiệu Bồ Tát Quán Ấm. Trên nắp hòm, kiến cắn nhặm thành một tháp nhỏ hình tám cạnh, có bảy từng. Như thế, chứng minh sự tu trì cẩn mật của Thầy.

Dân Quốc năm thứ 13, 85 tuổi. (1924/25)

Năm ấy, tôi sửa sang lại tất cả tháp chư tổ sư toàn núi cùng tháp bảy vị Phật. Tổng cộng là mười sáu ngôi tháp. Lại sơn phết các tôn tượng Phật, Bồ Tát, năm trăm vị A La Hán trong tất cả chùa chiền. Nơi đại hùng bảo điện chùa Thắnh Nhân, đúc ba tượng Phật bằng đồng, và sửa lại chánh điện Tây Phương, cùng vẽ ba ngôi thánh tượng v.v...

Mùa xuân, kỳ truyền giới chấm dứt. Thiền sư Cụ Hành tự thiêu mà vãng sanh. Tôi có ghi lại sự việc như sau:

"Ký thuật về hạnh nghiệp của thiền sư Cụ Hành:

Thầy tên Nhật Biện, tự Cụ Hành, người tỉnh Hội Lý. Lúc nhỏ, cha mẹ mất sớm. Có người họ Tăng thương tình đem về nuôi nấng. Lớn lên, lại gả con gái cho. Sau đó, sanh ra hai đứa con. Gia đình luôn nghèo cùng túng thiếu. Tám người trong gia đình thường đến chùa làm công quả. Năm Tuyên Thống nguyên niên, lúc tôi vận chuyển Đại Tạng kinh về núi, liền truyền giới. Khi ấy, Thầy được hai mươi tuổi, hướng dẫn toàn gia đình đến chùa cầu xin xuất gia. Mặt Thầy xấu, lại không biết chữ, nhưng ban ngày khổ hạnh trồng rau quả, tối đến lễ lạy sám hối, niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Ấm, tập tu thiền, tự học tụng kinh, không nhờ người chỉ dạy, chỉ tự lực tinh tấn. Năm Dân Quốc thứ tư, Thầy xin ra ngoài tham học.

Đến năm Dân Quốc thứ chín, lúc tôi trụ trì chùa Vân Lâu ở Côn Minh, Thầy trở lại nhận chức trồng rau sau chùa. Thầy thường lên chánh điện tụng kinh, may vá y áo cùng đệm giường gối cho tăng chúng, không từ gian lao khổ nhọc. Ngày ngày trồng rau. Nếu có dư thừa rau cải thì đem cho người khác để gieo duyên, không giữ thực phẩm riêng cho mình. Thầy rất ít nói chuyện vãn. Khi tôi trú tại hạ viện chùa Thắng Nhân, nhận thấy mật hạnh của Thầy, thật khó ai bì kịp.

Kỳ truyền giới trong năm, Thầy cầu xin thọ giới tỳ kheo, rồi trở lại hạ viện tu hành. Đến ngày hai mươi chín tháng ba, dùng cơm trưa xong, Thầy qua chùa Thắng Nhân, ra sân sau chánh điện, tự lấy rơm rạ lót chung quanh, đắp y ca sa, ngồi xếp bằng trên đó, tay trái cầm khánh dẫn lễ, tay phải cầm dùi gõ mõ, mặt hướng về phía tây niệm Phật, rồi tự đốt rơm. Vài chục người trong chùa, không biết Thầy đi đâu, liền chạy ra ngoài, thấy lửa cháy rần rần. Họ đến gần, thấy Thầy đang ngồi bất động trong đóm lửa, mà y ca sa vẫn y như cũ, chỉ có mõ là bị cháy. Người trong chùa chạy đến báo tin cho tôi hay. Vì đang bận chuẩn bị cho kỳ truyền giới Bồ Tát vào mồng tám tháng tới, nên không thể xuống núi được, liền viết thơ mời Vương Trúc Thôn, trưởng ban tài chánh tỉnh lỵ, và Trương Chuyết Tiên, trưởng cục thủy lợi, thay mặt tôi làm lễ an táng cho Thầy. Họ Vương và họ Trương thấy việc kỳ lạ này, liền thuật lại với đề đốc họ Đường. Họ Đường dẫn toàn gia quyến đến xem. Họ thấy thân Thầy ngồi nghiễm nhiên bất động, tay vẫn còn cầm khánh. Khi vừa lấy chiếc khánh ra khỏi tay thì toàn thân Thầy bỗng tan rụi thành tro bụi. Tất cả đại chúng đều sanh thâm thâm tín. Họ Đường đề nghị rằng lễ an táng thầy Cụ Hành phải do chánh phủ đảm trách trong ba ngày. Người đến chiêm lễ cả hàng chục ngàn người. Họ Đường đem chiếc khánh đó cùng một bản văn sơ lược tiểu sử thầy Cụ Hành, giao cho thư viện tỉnh bảo quản.

(Đại sự trong năm: Tháng giêng, Quốc Dân Đảng tuyên bố là đảng trị quốc. Tháng năm, khai mở trường quân giáo tại Hoàng Bộ. Tháng mười, chiến tranh giữa hai tỉnh Giang-Triết. Tháng mười một, họ Tào từ chức, họ Ấn lên chấp chánh chính phủ lâm thời. Tiên sinh Tôn Trung Sơn trở về Bắc Kinh.)

Dân Quốc năm thứ 14, 86 tuổi. (1925/26)

Mùa xuân, sau kỳ truyền giới, tôi ở lại chùa giảng kinh. Giảng xong, nơi thiền đường, khai mở một tuần thiền thất. Vùng núi của chùa, rất rộng lớn, cây cối um tùm, cần phải đốn bớt. Tôi nhờ người trong thôn đến cùng với đại chúng đốn củi, rồi phân làm nhiều loại, chia cho họ nửa phần. Họ đều vui vẻ.

Năm đó, tỉnh Vân Nam cải đổi, bỏ chức đề đốc tỉnh trưởng. Họ Đường từ chức, trở về ở ẩn, thường lui tới núi đàm đạo.

(Đại sự trong năm: Tiên sinh Tôn Trung Sơn qua đời tại Bắc Kinh. Tháng sáu, thành lập chánh phủ Dân Qụốc tại Quảng Châu.)

Dân Quốc năm thứ 15, 87 tuổi. (1926/27)

Nhiều biến cố xảy ra trong năm. Binh lính trú tại nhà dân. Dân chúng không ai sống được an ổn, lại không dám ra ngoài đồng gặt hái trong mùa lúa chín vì sợ binh lính. Tôi đến doanh trại lính, bàn thảo với các tướng chỉ huy. Sau đó, họ ra lịnh cho quân lính là không được cản trở khi có tăng chúng cùng nông dân ra đồng gặt lúa. Vì thế, vài ngàn nông dân cùng đến chùa ở. Lúc đầu, cùng đồng ăn cơm. Kế đến, phải ăn cháo. Cuối cùng, hết gạo, chỉ uống nước thôi. Dân chúng thấy tăng chúng đồng cam cộng khổ như thế, nên rất cảm động. Khi hiện tình quân binh được an ổn thì dân chúng đồng trở về nhà. Kể từ đó, dân chúng hết lòng giúp đỡ, bảo hộ chùa chiền, thật rất thành tâm.

Từ lúc tôi trụ trì chùa Vân Lâu, mỗi năm đều mở kỳ truyền giới, giảng kinh, khai thiền thất. Năm nay, trong kỳ truyền giới, trước chánh điện, có những cây mai khô đột nhiên nở trăm chùm hoa, dạng trạng như hoa sen. Tất cả cây cỏ trong vườn trước và sau chùa, tự nhiên nở hoa sen màu xanh. Trong mỗi hoa sen, có nhụy hoa giống như một tượng Phật đứng. Trương Chuyết Tiên có ghi khắc lại việc lạ lùng, hiếm có này trên đá, bằng một bài thơ.

(Đại sự trong năm: Tháng bảy, tiên sinh Tưởng Trung Chánh nhận chức tổng tư lệnh đảng Cách Mạng Dân Quốc, dẫn binh ra bắc chinh phạt. Tháng chín, chiếm Võ Xương. Tháng mười một, chiếm Cửu Giang. Tháng chạp, chánh phủ Dân Quốc dời về Vũ Hán.)

Dân Quốc năm thứ 16, 88 tuổi. (1927/28)

Trong năm, tôi vẫn truyền giới, giảng kinh, khai thiền thất. Đồng thời, tôi cho xây cất thêm các điện, mái ngói, phòng ốc, cùng đúc đại hồng chung U Minh.

(Đại sụ trong năm: Tháng tư, chính phủ Dân Quốc kiến lập thủ đô tại Nam Kinh. Tháng sáu, Trương Tác Lâm xưng Đại Nguyên Soái tại Bắc Kinh. Tháng chạp, chính phủ Dân Quốc cùng quân Cộng Sản tuyệt giao.)

Dân Quốc năm thứ 17, 89 tuổi. (1928/29)

Vì muốn đúc thêm tượng Phật, nên tôi cùng với cư sĩ Vương Cửu Linh đi Hồng Kông để quyên góp tịnh tài. Khi ấy, tướng Trần Chân Như phái tùy viên đến Hồng Kông đón chúng tôi về Quảng Châu. Chúng tôi trú tại viện Gi Dưỡng, rồi cùng đến chùa Năng Nhân, núi Bạch Vân. Họ Trần thỉnh tôi trụ trì chùa Nam Hoa, Tào Khê, nhưng tôi khước từ. Tôi đến Hạ Môn, qua Phước Châu, rồi trở về núi Cổ Sơn giảng kinh. Xong, tôi tới chùa A Dục Vương, lạy xá lợi Phật, rồi trở lại núi Phổ Đà. Hòa thượng Văn Chất đưa tôi đi Thượng Hải, trú tại am Hương Sơn, chùa Long Quang. Cuối thu, hòa thượng Đạt Công tại Cổ Sơn viên tịch. Đại chúng cử người đến Thượng Hải gặp tôi. Vì gần cuối năm, nên tôi ở lại Thượng Hải qua năm mới.

(Đại sự trong năm: Trương Tác Lâm trở về Phụng Sơn, nhưng trên đường đi, bị phục kích chết. Tháng chạp, ba tỉnh miền đông khởi cờ hiệu. Chính phủ Dân Quốc thống nhất Trung Quốc.)

Dân Quốc năm thứ 18, 90 tuổi. (1929/30)

Tháng giêng, tôi từ Thượng Hải trở về Cổ Sơn. Đô đốc hải quân Dương Huyền Kinh, chủ tịch và cựu chủ tịch tỉnh Phước Kiến đồng dẫn quan dân sĩ thứ đến thỉnh mời tôi ở lại trụ trì chùa Cổ Sơn. Nghĩ lại, đây là nơi tôi xuống tóc xuất gia, thừa thọ ân Thầy Tổ, khó mà từ chối, nên tôi phải chấp nhận chức trụ trì.

Dân Quốc năm thứ 19, 91 tuổi. (1930/31)

Qua một năm ở tại Cổ Sơn, những việc khó khăn rắc rối từ từ được giải quyết. Mùa xuân, trong kỳ truyền giới, tôi thỉnh hòa thượng Văn Chất làm Yết Ma Giới Sư. Tháng giêng, tôi giảng kinh Phạm Võng. Trong vườn Phương Trượng, có hai cây phượng vĩ lớn. Theo lời kể của các vị cổ đức thì một cây do chính tay thái tử Mân Vương trồng, còn một cây thì do tổ sư Thánh Triết trồng, vào đời Đường, đã hơn một ngàn năm. Hai cây phượng vĩ này mọc rất chậm. Mỗi năm chỉ sanh ra một hoặc hai lá thôi. Cả hai cây cao khoảng mười thước, chưa từng nở hoa. Tương truyền, một ngàn năm mới nở hoa một lần. Trong kỳ truyền giới, hai cây phượng vĩ này đột nhiên nở hoa rộ khắp. Dân chúng xa gần đến xem, lưu luyến đạo tình. Hòa thượng Văn Chất có viết một bài kệ ngắn về việc kỳ lạ này. Tôi cũng có đề một bài kệ như sau:

"Ưu đàm bát la phi phàm phẩm,

Tùy Phật thị hiện kim hoa,

Thế gian thải phượng xưng dương thụy,

Hiện đáo kiết tường hỷ khả gia,

Huyền sơn trượng thất lưỡng thiết thọ,

Nhân ngôn thử hủy hướng vô ba,

Định thị chủ lâm thần ủng hộ,

Cố tương nhân thọ phóng lưu hà.

Dịch:

Hoa Ưu Đàm Bát, vật phi phàm,

Y theo Phật thị hiện hoa vàng,

Chiếu soi điềm lành khắp thế gian,

Hiện việc tốt lành vui vẻ thay,

Hai cây phượng nơi thất núi huyền,

Người bảo cây chưa từng nỏ hoa,

Chắc là do thần cây ủng hộ,

Cố phóng ánh quang vì nhân thọ."

Dân Quốc năm thứ 20, 92 tuổi. (1931/32)

Tôi vẫn ở Cổ Sơn tu sửa chùa viện, truyền giới giảng kinh, lập Phật học viện giới luật, xây am Bình Sở, am Vân Ngọa và các tự viện.

Dân Quốc năm thứ 21, 93 tuổi. (1932/33)

Mùa xuân năm ấy, trong kỳ truyền giới tại Cổ Sơn, đột nhiên có một ông lão, tóc trắng như tuyết, dung mạo thanh cao, kỳ dị, đi thẳng vào thất phương trượng, quỳ xuống cầu giới. Tôi hỏi ông tên gì. Ông đáp rằng họ Dương, người Mân Nam, Đài Kiều. Có một vị mới vừa thọ giới, tên Diệu Tông, cũng là người Đài Kiều, nói rằng chưa từng gặp qua ông lão đó. Sau khi truyền giới Bồ Tát, lúc cấp giới điệp xong, thì không thấy tông tích ông lão đâu cả. Lúc Diệu Tông trở về Đài Kiều, đến am Long Vương, thấy một bức tượng ngồi nghiễm nhiên, giống như ông lão, lại thấy giới điệp trong tay của tượng thần. Nam Đài chấn động, truyền nhau rằng Long Vương cầu thọ giới. Cũng trong kỳ truyền giới đó, có lão cư sĩ người Quảng Đông, là học giả triều Thanh, tên Trương Ngọc Đào, sáu mươi sáu tuổi, đến núi cầu giới. Tôi mời ông quản lý trông coi kinh tạng ở Cổ Sơn. Kỳ truyền giới chấm dứt, tôi thỉnh lão pháp sư Từ Chu tại pháp đường giảng giới Căn Bản của Bốn Phần Luật, cùng thỉnh hai vị pháp sư Tâm Đạo, Ần Thuận làm giáo thọ.

(Đại sụ trong năm: Tháng giêng, quân Nhật chiếm Cẩm Châu, tấn công Ầp Bắc nơi Thượng Hải. Quốc dân kháng chiến. Tháng ba, Đoàn Nghị tại Trường Xuân tức nước Mãn Châu, chính thức lên cầm quyền.)

Dân Quốc năm thứ 22, 94 tuổi. (1933/34)

Trong kỳ truyền giới, vào mùa xuân, tôi thỉnh lão pháp sư Ứng Từ giảng kinh Phạm Võng. Tháng giêng, quân Nhật chiếm cửa ải Sơn Hải, làm nhân tâm lo sọ, kinh hãi. Đạo quân thứ mười chín tại Phước Kiến đặt trong tình trạng báo động. Các chùa miếu tự viện trong toàn tỉnh, đình chỉ việc cho khách tăng tạm trú tại chùa, chỉ có Cổ Sơn là nơi vẫn còn tiếp đãi khách tăng. Khoảng năm sáu trăm tăng chúng cư ngụ tại núi. Việc phân phát lương thực thật khó khăn, nhưng mỗi người vẫn được một phần cháo vào buổi sáng và một phần cơm vào buổi trưa.

Tháng sáu, xây xong công viên phóng sanh. Trong các con ngỗng do cư sĩ Trịnh Cầm Tiều mang tới phóng sanh, có một con rất kỳ lạ. Nó nặng hơn mười sáu ký. Khi nghe tiếng mõ khánh đánh, nó trương hai đôi cánh và ngưỡng cổ ra. Khi vào chánh điện, nó giương mắt nhìn tượng Phật suốt cả ngày. Một tháng sau, nơi chánh điện, trước tượng Phật, nó đứng thẳng mà chết, nhưng không ngã xuống đất. Trịnh cư sĩ rất kinh ngạc, liền thỉnh chư tăng đem nó đi thiêu đốt. Tháng bảy, khi thiêu thì xác nó không bốc ra mùi gì hết. Một ngôi mộ được đào để chứa tro cốt của các động vật.

(Đại sự trong năm: Tháng giêng, quân Nhật xâm nhập cửa ải Sơn Hải. Tháng ba, chúng chiếm Nhiệt Hà, tấn công Hoa Bắc.)

Dân Quốc năm thứ 23, 95 tuổi. (1934/35)

Mùa xuân, một bước tiến nữa để hoàn hảo chương trình giáo dục nơi Phật học viện tại Cổ Sơn là thỉnh lão pháp sư Từ Chu làm viện chủ. Tháng hai, vào đêm nọ, trong lúc tọa thiền, tâm tôi dường như đang mộng mà cũng chẳng phải mộng, thấy Lục Tổ đại sư đến bảo: "Đã đến lúc rồi, Thầy hãy trở về!"

Hôm sau, tôi bảo đệ tử là Quán Tâm: "Duyên đời của Thầy chắc không còn lâu đâu. Hôm qua Lục Tổ đại sư gọi Thầy trở về!"

Thấy Quán Tâm buồn bả, tôi an ủi. Đến giữa tháng tư, đêm nọ, mộng ba lần, thấy Lục Tổ thúc giục tôi trở về. Thật là việc lạ kỳ. Chẳng bao lâu, tôi nhận điện tín từ chính quyền tỉnh Quảng Đông. Họ muốn thỉnh tôi về sửa chữa đạo tràng Lục Tổ. Tôi nghĩ đến thánh địa đó, hiện tại rất cần tu bổ sửa sang. Trước kia, lần sửa chữa cuối cùng là do ngài Hám Sơn (1546-1623) đảm trách. Thế nên, tôi mang hành lý đi về Lĩnh Nam.

Khi xưa, tướng quân Lý Hán Hồn lúc đóng quân tại vùng phía bắc tỉnh Quảng Đông, tận mắt thấy chùa Nam Hoa bị hư hoại nặng nề, nên tự sửa sang đôi chút, từ tháng chín năm 1933 đến tháng tám năm 1934. Mùa đông, tại chùa Nam Hoa, chư hộ pháp cố thỉnh tôi truyền giới. Vì phòng ốc, điện đường bị hư hoại, sụp đổ, nên chúng tôi tạm cất những mái chòi tre để cho cả trăm tăng chúng cư ngụ. Quan thân sĩ thứ vùng Quảng Châu và Triều Châu cùng quyến thuộc đến thọ giới quy y. Mười bảy tháng chạp, kết đàn tràng tại chánh điện. Tối đến, đang khi truyền giới Bồ Tát, có một con hổ đến, như thể muốn thọ giới quy y, khiến toàn thể đại chúng đều hoảng sợ. Tôi truyền tam quy y và thuyết giới cho hổ. Nó có vẻ như hiểu biết mà thọ nhận, rất thuần thục. Thọ giới xong, nó liền bỏ đi.

(Phụ chú: Mùa đông năm Dân Quốc thứ hai mươi ba, kiến lập đạo tràng xong. Tối nọ, khi bốn chúng cùng quan dân sĩ thứ đồng tụ hội tại chánh điện, thì Giang Khổng Ấn, lúc đang đứng trên lầu các, phát hiện ra trước cửa chùa Nam Hoa có hai luồng ánh sáng chói lòa. Đến gần, thấy rõ đó là hổ, nên ông ta liền la lên. Quân lính cầm súng định bắn thì kịp lúc Vân Công bước ra cản lại. Hổ liền quỳ xuống. Vân Công thuyết tam quy y, cùng dạy nó rằng hãy nên ẩn trong núi thẩm rừng sâu, chớ có ra ngoài hại người. Hổ cúi đầu ba lần rồi đứng dậy, đi trở vào rừng, nhưng với điệu dạng rất quyến luyến. Kể từ đó, mỗi năm hổ đều xuất hiện một hai lần. Vài lúc, núi rừng tuyệt không dấu tích các loài cầm thú khác vì nghe tiếng rống của hổ. Vân Công đôi khi đi ra gặp nó, vỗ về an ủi lời lành thiện. Việc hổ già quy y Tam Bảo thật rất kỳ lạ. Được nghe Vân Công trong lúc thuyết giới có nói bài kệ:

"Hổ biết quy y Phật,

Tánh chánh không hai,

Tâm người, tâm thú,

Đồng tạng quang minh."

(Đại sự trong năm: Phổ Nghị tại Trường Xuân, Mãn Châu xưng đế, cải hiệu là Đại Đồng.)

Dân Quốc năm thứ 24, 96 tuổi. (1935/36)

Mùa xuân, tướng Lý Hán Hồn được thuyên chuyển về vùng phía đông tỉnh Quảng Đông. Thế nên chúng tôi mất đi một vị đại hộ pháp. Việc kiến lập tự viện ngày một khó khăn. Sau kỳ truyền giới, theo lời thỉnh mời của Đông Hoa Tam Viện, tôi qua Hồng Kông, kiến lập đàn tràng Thủy Lục Không tại vườn Đông Liên Giác Uyển. Phật sự xong, tôi trở về Cổ Sơn, từ chức trụ trì. Tôi thỉnh lão hòa thượng Thạnh Huệ kế nhậm chức trụ trì. Sau đó, tôi liền trở lại chùa Nam Hoa. Việc đầu tiên là tôi cho tu bổ lại chánh điện thờ chư Tổ Sư, xây điện thờ Bồ Tát Quán Ấm, và cất phòng xá. Tháng chạp, nơi phía bắc đình Phục Hổ, thuộc phía nam suối Trác Tích, có ba cây tùng cổ xưa, trồng từ đời Tống (960-1279), đã khô héo trong vài trăm năm, nay đột nhiên ra lá. Thủ tọa Quán Bổn có ghi lại việc lạ kỳ này. Bài ký sự được cư sĩ Sầm Học Lữ khắc trên đá tại chùa.

Dân Quốc năm thứ 25, 97 tuổi. (1936/37)

Mùa xuân, việc tu sửa điện đường phòng xá từ từ được hoàn tất. Tổng thống Dân Quốc, ông Lâm Tử Siêu, bộ trưởng, ông Cư Chánh, tướng Tưởng Trung Chánh v.v..., lần lượt đến chùa Nam Hoa. Hai ông, Lâm Tử Siêu và Cư Chánh, hộ trợ việc xây cất trùng tu đại điện. Tướng Tưởng Trung Chánh cúng dường tiền để mướn nhân công đào sửa lại con suối chạy ngang qua chùa. Tuy nhiên, vào lúc cuối, không cần nhân lực, nhưng vẫn hoàn thành. Thật biết ơn chư long thần hộ pháp đã gia hộ.

(Phụ chú: Con suối chảy ngang chùa Nam Hoa, xưa vốn cách xa khoảng một trăm bốn mươi thước. Vì lâu năm không đào vét, nên cát đá lấp đi, khiến nước chảy về hướng bắc, thẳng đến cửa chùa. Để đưa con suối trở lại hướng cũ, phải cần mướn khoảng ba ngàn nhân công, tốn kém rất nhiều. Ngày hai mươi tháng bảy, chuẩn bị khởi công thì tối hôm đó, trời đổ mưa to, rơi xuống như muôn ngàn con ngựa đang chạy đua. Sáng hôm sau, dứt mưa, nước tràn ra bờ suối, chảy dài theo hướng mà chúng tôi ước muốn. Đất đá của con suối trước, đắp thành bờ đê cho con suối sau này, cao cả vài thước. Dường như long thần hộ pháp đã giúp đỡ chúng tôi sửa lại hướng của con suối này.)

Dân Quốc năm thứ 26, 98 tuổi. (1937/38)

Sau kỳ truyền giới vào mùa xuân, thể theo lời thỉnh cầu của hội cư sĩ Tuệ Viên, tôi đi giảng kinh tại Quảng Châu. Khi ấy, có các vị Lạt Ma người Tây Tạng cùng vài mươi người đến gặp tôi. Tăng chúng ở vùng Phật Sơn, thỉnh tôi đến đó làm lễ khai quang cho bảo tháp tại chùa Nhân Thọ. Kế đến, tôi lại trở về chùa Nam Hoa lo coi sóc công trình xây dựng các tự viện.

(Đại sự trong năm: Ngày bảy tháng bảy, quân Nhật vây cầu Lô Giang. Quân dân thối lui về Bắc Bình. Chiến tranh Trung-Nhật lan tràn khắp nơi. Tháng chạp, Nam Kinh bị vây hãm. Chánh phủ Dân Quốc tuyên bố dời đô về Trùng Khánh.)

Dân Quốc năm thứ 27, 99 tuổi. (1938/39)

Kỳ truyền giới vào mùa xuân xong, tôi đến Tuệ Viên giảng kinh. Giảng xong, tôi đi Hồng Kông, đến vườn Đông Liên Giác Uyển, kiến lập pháp hội Đại Bi Sám Pháp. Qua mùa thu, tôi trở lại chùa Nam Hoa.

Dân Quốc năm thứ 28, 100 tuổi. (1939/40)

Vào mùa xuân, trong kỳ truyền giới, các tỉnh đều bị binh đao loạn lạc. Tăng chúng đến chùa cầu thọ giới rất đông. Tôi đề nghị là trong tình cảnh loạn ly, chiến tranh tàn khốc, binh sĩ cùng dân chúng bị thương vong rất nhiều, phàm là người Phật tử, mỗi người phải phát tâm, thiết lễ đàn tràng, mỗi ngày sám hối hai giờ, cầu siêu độ cho các vong linh vất vưởng, cùng cầu nguyện tiêu tai giải nạn. Tôi cũng đề nghị là toàn thể đại chúng nên giảm bớt khẩu phần ăn của mình để dùng vào việc cứu giúp dân chúng. Lời đề nghị của tôi được chấp thuận và thi hành.

(Đại sự trong năm: Ngày mồng một tháng chín, thế chiến thứ hai tại Châu Ấu phát khởi.)

Dân Quốc năm thứ 29, 101 tuổi. (1940/41)

Sau kỳ truyền giới vào mùa xuân, Quảng Châu bị vây hãm. Quân dân hai chánh phủ thối lui, trở về Triết Giang. Tăng chúng các nơi đổ dồn về chùa đông đúc. Tôi vẫn trùng tu chùa Đại Giám tại Triết Giang, làm hạ viện của chùa Nam Hoa, để tiện việc tới lui. Lại trùng tu chùa Nguyệt Hoa để tiếp đón tăng chúng.

(Đại sự trong năm: Tháng giêng, Uông Tinh Vệ cùng Nhật Bổn ký mật ước bán nước, cũng gọi là chánh phủ Dân Quốc, đóng đô tại Nam Kinh.)

Dân Quốc năm thứ 30, 102 tuổi. (1941/42)

Mùa xuân, sau khi truyền giới, tôi cấp tốc công trình xây dựng các điện đường mái ngói. Khoảng tám chín mươi người ra công sức xây cất chùa. Trong hai năm, có các đệ tử cùng chư thiện tín đến cúng dường được khoảng hơn hai trăm ngàn đồng. Tôi giao cho chính quyền địa phương dùng vào việc cứu giúp dân nghèo. Tôi không muốn giữ chút nào hết, vì dân chúng tỉnh Triết Giang đang bị chịu cảnh thiếu ăn, đói khổ khắp nơi. Năm nay, Triết Giang thành lập hội Phật Giáo Quảng Đông, đề cử tôi làm chủ tịch và cư sĩ Trương Tử Kiêm làm phó chủ tịch.

(Đại sự trong năm: Tháng chạp, chiến tranh tại Thái Bình Dương bộc phát. Quân Nhật công hãm Hồng Kông, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân, Ngưỡng Quang, cùng các nước khác.)

Dân Quốc năm thứ 31, 103 tuổi. (1942/43)

Trong kỳ truyền giới, có thọ thần đến cầu thọ giới, rất là kỳ lạ. Giám viện Quán Bổn có ghi lại như sau:

"Vào lúc truyền giới, chợt có một hành giả đến, cầu thọ giới tỳ kheo. Khi được hỏi danh tánh là gì, người ở đâu, bao nhiêu tuổi, thầy thế độ là ai, có mang đủ ba y ca sa, một bình bát không, thì trả lời rằng Thầy vốn họ Trương, người Triết Giang, ba mươi bốn tuổi, không có thầy thế độ, cũng không có ba y ca sa và một bình bát. Vì lòng chân thành, nên Thầy được ban cho tất cả vật dụng cần thiết để thọ giới xuất gia, cùng với pháp danh là Thường Nhục. Trước khi được thọ giới, Thầy làm rất nhiều công việc nặng nhọc trong chùa như quét dọn lau chùi trong ngoài tự viện. Tính tình trầm mặc, không nói chuyện chi với ai. Khi được cho lên đàn thọ giới thì nhất nhất đều theo giới luật. Đến khi tam đàn đại giới sắp kết thúc, tức sau đàn truyền giới Bồ Tát, thì không ai tìm thấy Thầy đâu hết, mà y ca sa, giới cụ vẫn còn để lại giới đường. Việc này, từ từ mọi người cũng quên hẳn. Trước kỳ truyền giới năm sau, Vân Công mộng thấy vị thầy kia đến xin lại giới điệp. Được hỏi rằng Thầy đi đâu sau khi lễ truyền giới chấm dứt thì trả lời rằng Thầy ở chung với thần đất nơi đó chứ không đi đâu hết. Tỉnh dậy, Vân Công biết đó là thọ thần khi trước đến cầu thọ giới, nên bảo tăng chúng đem giới điệp đó đến dưới gốc cây cổ thụ bên cạnh chùa, nơi miếu thổ địa, mà đốt để trả lại cho thọ thần."

Trong mùa hạ và mùa thu, tôi sửa lại am Vô Tận cho ni chúng trú ngụ. Chùa Đại Giám vừa được xây xong, nhưng công trình trùng tu chùa Nam Hoa vẫn chưa hoàn tất. Đồng thời, tôi luôn phải lo lắng những việc thế gian lẫn xuất thế gian tại Cổ Sơn. Không lúc nào được rảnh rỗi. Lại có máy bay Nhật cứ mãi quấy nhiễu không yên.

(Phụ chú: Từ lúc Nhật chiếm Quảng Châu, tỉnh phủ của chính phủ Dân Quốc dời về Triết Giang. Các tướng tá cao cấp thường lui tới chùa Nam Hoa. Tình báo Nhật biết được rằng chùa thường là nơi hội họp của chính phủ Dân Quốc. Ngày nọ, vào tháng bảy, quả nhiên có rất nhiều vị cao cấp trong chính phủ Dân Quốc đến chùa. Máy bay Nhật vì thế cứ lượn vòng quanh chùa mãi. Vân Công biết nguy hiểm sắp đến, nên bảo tăng chúng cùng mọi người nên trở về phòng xá, còn Ngài thì vào Tổ đường, một mình đốt hương, ngồi xếp bằng, tọa thiền. Lát sau, máy bay thả bom xuống vào một lùm cây bên bờ suối ngoài chùa, nhưng không nổ. Sau đó, một đoàn máy bay lại cứ lượn vòng quanh chùa mãi. Đột nhiên, có hai chiếc trong đoàn máy bay, tự đâm vào nhau, rồi rớt xuống, cách chùa khoảng bốn mươi dặm tại vùng Mã Bá. Cả người và máy bay đều tan xác. Từ đó, máy bay Nhật không còn dám bay ngang chùa trong những chuyến vào Nam ra Bắc nữa.)

Tháng mười một, tổng thống chính phủ Dân Quốc, họ Lâm, cùng các bộ trưởng, phái hai vị cư sĩ Chuyết Ánh Quang và Trương Tử Khiêm đến chùa thỉnh tôi qua Trùng Khánh, kiến lập pháp hội tiêu tai giải nạn. Ngày sáu tháng mười một, tôi khởi hành đến Hành Ngạc, dâng hương. Tướng Lý Tể Thâm cùng Quế Lâm phái Kế Quốc Trụ đến tiếp đón. Khi đến núi Nguyệt Nha nơi tướng Lý Tể Thâm đóng binh thì bốn chúng tại gia lẫn xuất gia đến tiếp đón tôi. Lúc đến Quý Châu, qua chùa Kiểm Minh, hòa thượng Quảng Diệu thỉnh tôi thượng đường khai thị. Đến Trùng Khánh, gặp các đại diện chính quyền cùng các tự viện đến nghinh tiếp. Sau khi gặp tổng thống họ Lâm và trưởng ban tổ chức họ Đái, chúng tôi cùng bàn thảo việc tổ chức pháp hội tại hai chùa Từ Vân và Hoa Nam.

Dân Quốc năm thứ 32, 104 tuổi. (1943/44)

Tháng giêng, tôi làm lễ sám, pháp hội cầu tiêu tai giải nạn. Đến ngày hai mươi sáu mới chấm dứt. Tổng thống họ Lâm, tướng họ Tưởng, bộ trưởng họ Đái, tướng họ Hà, v.v..., lần lượt mời tôi dự cơm chay. Tướng họ Tưởng vấn hỏi Phật pháp rất thâm sâu, từ luận duy vật duy tâm đến các tôn giáo hũu thần như Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo v.v... Mọi chi tiết, tôi đều trả lời bằng thơ từ (có phần phụ chú, sẽ bàn sau). Tại chùa Từ Vân, chùa Hoa Nham, tôi lên tòa thuyết pháp. Thị giả là Duy Nhân có ghi lại chi tiết. Tháng ba, tôi trở về Nam Hoa sửa chữa tháp Hải Hội của bảy chúng. Khi đào đất lên thì thấy bốn cái hòm trống, không có hài cốt. Mỗi cái dài một thước sáu tấc, cùng một thẻ màu đen, hình vuông, khoảng tám tấc, trên hòm có khắc hình chim, động vật, biểu tượng thiên văn học, nhưng không ghi rõ ngày tháng. Tháng sáu, khai mở học viện giới luật để giáo hóa thanh niên tăng. Lại thành lập trường tiểu học tại làng Bảo Lâm cho các con em thuộc gia đình nghèo khó trong làng. Mùa đông, hoàn thành xây cất tháp Hải Hội.

(Đại sự trong năm: Tổng thống họ Lâm từ trần. Tưởng Trung Chánh lên nhậm chức tổng thống.)

Dân Quốc năm thứ 33, 105 tuổi. (1944/45)

Trong năm 1940, sau khi trùng tu lại chùa Tào Khê, đạo tràng Lục Tổ Huệ Năng xong, tôi cùng thầy Phước Quả đi Triết Giang, Khổng Nguyên để tìm đạo tràng Long Thọ, nhưng không thấy. Khi đến núi Vân Môn, giữa các bụi cây cỏ lác, gai góc, chúng tôi tìm được di tích một ngôi chùa cổ xưa và nhục thân của vị tổ sáng lập ra đạo tràng Vân Môn. Hai lần thấy tổ đình bị hư hoại đến mức thậm tệ, tôi không thể cầm được nước mắt. Xót thương thay, một vị tăng tên là Minh Không đã ở đó từ năm 1938. Thầy đơn độc chịu dựng gian nan, rét buốt để lo hương khói cho Tổ Sư. Chùa nếu không được sửa sang thì tương lai sẽ bị hư hoại hoàn toàn, chìm vào trong quên lãng. Lúc trở lại chùa Nam Hoa, tôi có thương lượng với chủ tịch Lý Tể Thâm, tướng Lý Hán Hồn, v.v... Sau này, tướng Lý Hán Hồn khi đi kinh lý qua vùng Khổng Nguyên đến núi Vân Môn, thấy chùa Đại Giác thiền tự bị hư hoại sụp nát như chùa Nam Hoa thuở trước, nên ông mới bàn với chư tăng và các thân hào địa phương, thỉnh mời tôi lo việc trùng tu ngôi tổ đình. Tôi chấp nhận, giao chức trụ trì chùa Nam Hoa cho đệ tử là Phục Nhân. Tôi được các ngài Lý Tể Thâm, Lý Hán Hồn, Châu Hồng giao tích trượng Vân Môn cùng một số tiền lớn để trùng hưng lại chùa. Dự đoán là chiến tranh sẽ lan tràn đến chùa Nam Hoa, nên tôi bí mật thỉnh chuyển nhục thân của Lục Tổ Huệ Năng và ngài Hám Sơn cùng các pháp bảo khác trở về núi Vân Môn. Lúc mới đến Vân Môn, tôi thấy hầu hết các chùa viện đều bị hư hoại hoang tàn, ngoại trừ chánh điện thờ tổ Vân Môn, nhưng cũng sắp tàn hoại. Tôi trú sau chánh điện Quán Ấm, định việc trùng tu lại các ngôi tự viện trên núi. Tháng mười, chùa Nam Hoa tổ chức đàn tràng Thủy Lục Không, thỉnh tôi về làm Pháp Chủ.

Dân Quốc năm thứ 34, 106 tuổi. (1945/46)

Giữa mùa xuân và hạ, quân Nhật chiếm đóng vùng phía bắc tỉnh Quảng Châu. Các huyện luôn bị vây hãm. Thành Khổng Nguyên cũng bị bao vây. Dân chạy nạn chiến tranh đến Vân Môn rất nhiều. Không đủ thức ăn. Đại chúng đồng cam cộng khổ. Mới đầu thì còn được ăn cơm, ăn cháo, sau lại đến uống bột gạo. Trong những người chạy nạn, có thợ mộc, thợ đào ống cống, thợ đun ngói gạch, gần cả trăm người. Họ cùng làm việc sửa chữa lại tự viện phòng xá mà không lấy tiền công. Thế nên, công lao của họ rất lớn trong việc trùng tu chùa viện trên núi.

Mùa hè, khi dân quân di chuyển qua căn cứ phòng vệ nơi khác, thì một nhóm cướp địa phương chặn đường, đánh phục kích. Quân lương bị tổn thất nặng nề. Đại quân tiếp viện đến, định đánh quân cướp trong vùng, bao bọc khoảng hơn bốn mươi làng. Thế nên, cả ngàn người, già trẻ, gái trai cùng mang đồ chạy nạn lên núi. Các bô lão trong vùng đến chùa cầu tôi giúp đỡ, thương lượng với quân binh. Vì thế, tôi đi thẳng đến doanh trại các vị tướng tá, bàn luận cả ba ngày. Tôi cũng kêu gọi nhóm cướp địa phương trả lại những quân nhu đã lấy được. Nhóm cướp này đồng ý, trả lại tất cả đồ vật cho quân binh. Do đó, cuộc sống dân lành trở lại bình thường. Từ đó, dân chúng kính thương chư tăng như mẹ hiền.

Quân Nhật tuy bao vây huyện thành, mà không dám quấy phá núi Vân Môn, nên dân trong vùng tránh được nạn chiến tranh.

(Đại sự trong năm: Tháng sáu, Mỹ thả bom nguyên tử tại Quảng Đảo, Nhật Bổn. Tháng chín, quân Nhật tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, trao thơ đầu hàng tại Nam Kinh. Tháng mười, chánh phủ Dân Quốc chiếm lại Đài Loan.)

Dân Quốc năm thứ 35, 107 tuổi. (1946/47)

Thế chiến thứ hai chấm dứt. Mọi người trở về quê quán làm ăn sinh sống bình thường. Tại chùa Nam Hoa, tôi vẫn truyền giới giảng kinh vào mùa xuân. Mùa thu, chính phủ ra lệnh các tự viện trong toàn nước phải tụng kinh, truy điệu, cầu siêu cho các vong linh tử sĩ. Quan dân sĩ thứ ở Tuệ Viên thỉnh tôi đến làm Pháp Chủ. Ngày mười bảy tháng chín, tại chùa Tịnh Huệ, tôi thiết lập đàn tràng tràng cầu siêu. Trong chùa có một cây đào, đột nhiên nở hoa, nhụy đài tinh khiết như lưu ly, thực chưa từng có. Trên trăm ngàn người đến xem, rất thích thú. Cư sĩ Tăng Bích Sơn hái hoa đào làm tượng Cổ Phật. Cư sĩ Hồ Nghị Sanh vẽ một bức tranh về hoa đào kỳ diệu này. Pháp hội xong, quan dân sĩ thứ ở Hồ Sán thỉnh tôi đến chùa Khai Nguyên tại Hồ Châu hoằng dương Phật pháp. Người thọ giới quy y rất đông. Mùa đông, đệ tử lớn của tôi là Quán Bổn thị tịch.

(Đại sự trong năm: Chánh phủ Dân Quốc trở về đóng đô tại Nam Kinh.)

Dân Quốc năm thứ 36, 108 tuổi. (1947/48)

Mùa xuân, tôi vẫn đến chùa Nam Hoa truyền giới giảng kinh. Mùa hạ, Đông Hoa Tam Viện thỉnh tôi qua Hồng Kông lập pháp hội cầu an. Đến Hồng Kông, tôi trú tại trường Sùng Lan do cư sĩ Tăng Bích Sơn tiếp đãi. Ông cũng trợ giúp tôi làm Phật sự. Người thọ giới quy y vài ngàn người. Cư sĩ Khoan Vinh, Lý Dân Hân thỉnh tôi qua Ma Cao giảng kinh, khai thiền thất. Người đến quy y cũng vài ngàn người. Cư sĩ Mã Thi Truyền thỉnh tôi đến Thạch Kỳ, huyện Trung Sơn, lập pháp hội Đại Bi Sám Pháp. Người quy y cũng vài ngàn người. Phật sự xong, tôi trở về Vân Môn đốc thúc công trình xây dựng lại các tự viện.

Dân Quốc năm thứ 37, 109 tuổi. (1948/49)

Mùa xuân, truyền giới xong, tôi đi Tuệ Viên để khai sáng nhà thương Phật giáo Chí Đức. Tôi lại đến Hồng Kông giảng kinh tại Từ Hàn Tịnh Uyển nơi Sa Điện. Giám viện Trí Lâm thỉnh tôi khai mở tuần niệm Phật thất, thuyết ba quy y, năm giới cấm, lại qua Đông Liên Giác Uyển làm lễ bái sám, rồi trở về Vân Môn. Tháng năm, pháp sư Giới Trần thị tịch tại Vân Nam. Một bà người Mỹ tên là Ananda Jenning đến chùa cầu giới, học thiền đả thất, rất hoan hỷ.

(Phụ chú: Trong năm, có bà người Mỹ tên là Ananda Jenning, mến mộ thiền đức của Vân Công, từ ngàn dặm xa xôi, đáp máy bay qua Hoa Lục để cầu Vân Công chỉ dạy. Bộ ngoại giao Hoa-Mỹ báo tin. Vân Công chấp thuận. Đầu tiên, bà gặp Vân Công tại Hồng Kông. Bà lược thuật lý do muốn gặp Vân Công là vì thích nghiên cứu Phật pháp. Cha bà vốn là bác sĩ người Thiên Chúa giáo. Bà đã từng nghiên cứu về Thần giáo hơn hai mươi năm, nhưng không hiểu rõ cho lắm, nên mới đi khắp nơi học hỏi nghĩa lý Phật pháp. Sau đó bà qua Ấn Độ tu hành, nhập thất bốn năm, được chút sở đắc, nhưng vẫn còn chỗ nghi, nên nay không quản muôn dặm đường, tìm thầy học đạo. Sau đó, bà được đưa về chùa Nam Hoa, thọ giới quy y, pháp danh là Khoan Hoằng. Vân Công khai mở thiền thất. Bốn chúng đến chiêm lễ, tham gia rất đông. Ngày đầu khai mở thiền thất, Vân Công thượng đường khai thị:

"Nói về việc này, gốc vốn đã viên thành. Nơi thánh không tăng, nơi phàm không giảm. Như Lai bị luân hồi trong sáu đường. Nơi nào cũng nghe đến. Quán Ấm lưu chuyển trong mười loài. Loài nào cũng đều như thế. Nếu vậy thì cần cầu chi, tìm ở nơi nào? Tổ Sư nói: 'Nếu có thị phi thì tự tâm rối rít. Khi thuyền chưa chạy thì đã bị ăn gậy rồi.'

Thật đáng thương thay! Của báu trong nhà mà không tự mở ra. Đến chòi tranh tìm tranh. Đó chỉ vì một niệm vô minh, tâm cuồng không dứt, ôm đầu chạy đi tìm đầu, nước để trước mặt mà kêu khát.

Chư đại đức! Tại sao phải khổ công đến đây? Vì chư vị không thích phí tiền cho đôi dép rách, nên tôi cũng không sợ mở miệng xấu ra mà nói!"

Lúc ấy, Vân Công hô to: "Ông già Thích Ca đã đến! Tham quán."

Hoa Thuong Hu Van

Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân và Thầy Độ Luân (Tuyên Hóa)

Chư vị trưởng lão cũng ban pháp nhủ, khai thị đại chúng. Môn hạ, đệ tử Vân Công là Độ Luân, pháp danh Tuyên Hóa, đối đáp cùng với bà Ananda Jenning.

Thầy Tuyên Hóa hỏi: "Bà từ phương xa, trải qua bao cực khổ, nay đến đây, với mục đích gì?"

Đáp: "Vì tôi muốn học Phật pháp."

Hỏi: "Học Phật pháp thì phải biết cách chấm dứt dòng sanh tử luân hồi. Vậy ý bà đối với sanh tử như thế nào?"

Đáp: "Gốc vốn không sanh tử, thì cần gì phải thoát ra."

Hỏi: "Nếu không sanh tử, thì cần gì phải học Phật pháp?"

Đáp: "Xưa nay không có Phật. Người học là Phật."

Hỏi: "Phật có đủ ba mươi hai tướng tốt. Khi Ngài đặt ngón chân lên đất, thì dấu ấn phát quang. Vậy bà được gì?"

Đáp: "Được cùng không được, chỉ là lời nói nhảm thôi."

Hỏi: "Diệu giải của bà, lời lời đều hợp cả. Tuy thế, nói ăn mà bụng vẫn đói. Vậy một câu cứu cánh, bà thử nói xem?"

Đáp: "Cứu cánh vốn không câu. Lời nói, gốc cũng không có. Nếu không dẹp bỏ lời nói tạp, làm sao biết được tánh giác vốn là mẹ của muôn vật!"

Hỏi: "Những lời của bà, đều hợp với ý Tổ, nhưng nếu còn biết một chữ, tức là cửa ngỏ của tai họa. Bà đã giải nhập được rồi. Vậy dám hỏi chứ rời ngôn ngữ, tuyệt không câu cú, bản lai diện mục của bà là gì?"

Đáp: "Kinh Kim Cang nói rằng a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tức không phải a nậu đa la tam miệu tam bồ đề."

Thầy Tuyên Hóa bảo: "Tuy thế, mạng căn không thể cắt đứt bằng tri kiến. Hy vọng bà hãy nhìn rõ vào."

Đáp: "Tôi ít xem kinh Phật. Sau bốn năm nhập thất, ra ngoài bàn luận cùng người, ai ai cũng nói rằng lời tôi luôn hợp với Phật pháp, nhưng lời tôi không phải dựa vào kinh điển, cũng không dựa vào tri kiến."

Thầy Tuyên Hóa bảo: "Tuy không từ kinh điển, mà được lúc tĩnh tọa ngồi thiền. Đó là do trí tuệ tiềm ẩn phát ra. Nó cũng chính là tri kiến vậy."

Bà hỏi: "Phật pháp trọng thật chứng, không trọng tri kiến. Như thế nghĩa là gì?"

Thầy Tuyên Hóa nói: "Không câu nệ kinh luận, không chấp trước tánh tướng, đầu đầu là đạo, nơi nơi là chân lý. Chỉ miễn cưỡng nói 'Như Thị' đó thôi!"

Sau đó bà theo Vân Công đến Vân Môn lễ tổ, rồi ở lại khoảng nửa tháng, mới trở về Mỹ. Bà nói rằng khi trở về nước sẽ xiển dương Phật pháp.

Bà là người Mỹ đầu tiên qua Hoa Lục cầu học giáo nghĩa thâm sâu trong Phật pháp. Bà tuy có chỗ chứng đắc, nhưng vì ngôn ngữ không thông, nên khi đến Hồng Kông và chùa Nam Hoa, tham gia thiền thất, được cư sĩ họ Nhan phiên dịch trong các buổi đối thoại. Những bài khai thị của Vân Công, cũng được cư sĩ họ Nhan phiên dịch. Vân Công thuyết pháp, nghĩa lý tinh thâm, khiến bà có thể lãnh hội viên thông. Thật là một thắng duyên hy hữu.)

Hoa Thuong Hu Van