Giới thiệu
nh điển hình
Vu Lan 2007003
Cảnh đẹp66
Cảnh đẹp67
Cảnh đẹp68
Cảnh đẹp69
Cảnh đẹp70
Cảnh đẹp71
Cảnh đẹp72
Cảnh đẹp73
Cảnh đẹp74
Cảnh đẹp75
Cảnh đẹp76
Cảnh đẹp77
Cảnh đẹp78
Cảnh đẹp79
Cảnh đẹp80
Cảnh đẹp81
Cảnh đẹp82
Cảnh đẹp83
Cảnh đẹp84
Cảnh đẹp85
Cảnh đẹp86
Cảnh đẹp89
Cảnh đẹp90
Cảnh đẹp91
Cảnh đẹp92
Cảnh đẹp93
Cảnh đẹp94
Cảnh đẹp96
Cảnh đẹp97
Cảnh đẹp98
Cảnh đẹp99
Cảnh đẹp99
Cảnh đẹp100
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
TÌM KIẾM
Chùa Kim Quang giới thiệu




 
ĐẠI Y THIỀN SƯ TUỆ TỈNH



 


Thiền sư Tuệ Tĩnh (1330 - ?), là một Đại y sống ở giai đoạn cuối thời Trần. Ngài được hậu thế suy tôn, là tiên thánh của ngành y nước Nam.

Tại Hải Dương, đền thờ ngài ở xã Cẩm Văn, Cẩm Vũ, và ở chùa Hải Triều làng Yên Trung, nay là chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng, Và khu B trường Đại học kỹ thuật y tế Hải Dương, có tượng Thiền sư Tuệ Tĩnh.

Ngài sinh trưởng dưới triều Trần Dụ Tông (thế kỷ XIV), lúc lên 6 tuổi được quý thầy ở chùa Hải Triều nuôi tu học, (chùa Hải Triều sau gọi là chùa Nghiêm Quang, tức chùa Giám ở xã Cẩm Sơn, vì bị đất lở, đã dời đến xã Tân Sơn cùng huyện Cẩm Giàng). Đến 10 tuổi, chú tiểu Nguyễn Bá Tĩnh được quý thầy ở Giao Thủy, Sơn Nam (Nam Định), đưa về cho ở học với quý thầy tại chùa Dũng Nhuệ trong huyện. Ở đây, ngài được gọi là tiểu Tuệ, pháp danh Tuệ Tĩnh. Ngài được quý thầy dạy vǎn hóa và cả y học ở trong chùa.

Đến 22 tuổi, ngài đi thi hương trúng bảng, nhưng vẫn tu ở chùa không ra làm quan. Ngài tiếp tục việc chữa bệnh giúp dân trong chùa, và phát triển thêm một số cơ sở chữa bệnh ở các chùa lân cận, như chùa Hộ Xá (Nghĩa Xá). Nǎm 30 tuổi, ngài trở về trụ trì chùa Yên Trang. Ngài đã tu bổ lại chùa này với một số chùa khác, (24 ngôi), ở hạt Sơn Nam và quê hương, huấn luyện y học cho các Tǎng ni sinh, để mở rộng việc chữa bệnh cứu trợ xã hội.

Nǎm 45 tuổi, ngài thi đình đậu Thái học sinh (Hoàng giáp - Tiến sĩ). Nǎm 55 tuổi ngài là nhân tài đi sứ sang Trung Quốc. Ngài được nhà Minh giữ lại làm việc ở Viện Thái y, rồi mất ở bên ấy, không rõ nǎm nào.

Sự nghiệp trước tác: về Phật học, ngài đã giải nghĩa bằng chữ Nôm, 3 sách Thiền tông 'Khóa hư lục' của vua Trần Thái Tông soạn.

Về y học, ngài đã soạn các sách 'Dược tính chỉ nam', và 'Thập tam phương gia giảm', (theo Hải Dương phong vật chí), nhưng phần nguyên tác của Thiền sư Tuệ Tĩnh không còn trọn vẹn do binh hỏa, cụ thể các thư tịch của ta, đã bị quân nhà Minh phá hủy hồi đầu thế kỷ 15, khi sang xâm chiếm nước ta. Những tác phẩm còn lại đến nay, đều do người đời sau biên tập lại, với tài liệu thu thập trong nhân dân. Hiện có:

1. Bộ Nam dược thần hiệu: do Hòa thượng Bản Lai ở chùa Hồng Phúc, ở Trung Đô, (phố Hòe Nhai, dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay), biên tập, bổ sung và in lại nǎm 1761, gồm Bản thảo dược tính 499 vị, (bằng thơ), và 10 khoa chữa bệnh, với 3932 phương thuốc nam ứng trị 184 loại bệnh, kèm theo môn thuốc chữa gia súc.

2. Nam dược chính bản: do triều Lê Dụ Tông đổi tên là Hồng nghĩa giác tư y thư, và in lại nǎm 1717, quyển thượng gồm: Nam dược quốc ngữ phú, (danh từ được học 590 vị thuốc nam). Trực giải chỉ nam dược tính phú, (220 vị thuốc nam, và một thiên Y luận về lý luận cơ bản, âm dương ngũ hành, tạng phủ, kinh mạch, (thiên này xuất hiện ở bản in lại nǎm 1723: AB. 288).

3. Thập tam phương gia giảm: phụ Bổ âm đơn và Dược tính phú (242 vị) bằng chữ Hán, gồm 13 cổ phương đông y và phương Bổ âm đơn, do tác giả sáng chế cùng phương pháp.

Thiền sư Tuệ Tĩnh đã xây dựng nền móng của y học nước nhà, với truyền thống chữa bệnh bằng thuốc nam, theo phương châm: "Thuốc nam Việt chữa người Nam Việt ". Ngài đã gây phong trào trồng thuốc ở gia đình, vườn chùa, và thu trữ thuốc theo thời vụ, để có sẵn thuốc chữa bệnh kịp thời. Truyền thống của Thiền sư Tuệ Tĩnh, đã được đời sau thừa kế và phát huy rạng rỡ, trong việc bảo vệ sức khoẻ nhân dân, và phát triển y học dân tộc:

- Hoàng Đôn Hòa, Lương dược hầu dưới triều Lê Thế Tông, quê ở Đa Sĩ, (xã Kiến Hưng, tỉnh Hà Tây cũ), đã chữa bệnh rộng rãi và cứu cho nhân dân qua khỏi vụ dịch nǎm 1533, với thuốc nam trồng kiếm tại địa phương, và chữa cho quân đội triều Lê khỏi dịch sốt rét và thổ tả, ở Thái Nguyên nǎm 1574, với thuốc Tam hoàng hoàn, gồm Hoàng nàn, Hoàng lực, do Thiền sư Tuệ Tĩnh tìm ra nằm trong sách Nam dược thần hiệu và Hùng hoàng dùng chống khí độc lam chướng, ở Thập tam phương gia giảm. Đường lối dưỡng sinh của thầy Tuệ Tĩnh nói ở Bổ âm đơn, về phòng bệnh hư lao, đã được Hoàng Đôn Hòa cụ thể bằng thuyết, "Thanh tâm tiết dục", với phép "Tịnh công hô hấp", ở sách Hoạt nhân toát yếu.

- Hải Thượng Lãn Ông, (thế kỷ 18), đã học và thừa kế 496 bài thơ dược tính, của Nam dược thần hiệu chép vào sách Lĩnh nam bản thảo, với nhiều phương thuốc nam của Thiền sư Tuệ Tĩnh, chép vào các tập Hành giản trân nhu và Bách gia trân tàng. Đường hướng dưỡng sinh của Thiền sư Tuệ Tĩnh, về giữ gìn tinh khí thần, để sống lâu, cũng được Lãn Ông phụ thêm vào thiên Khởi cư, của tập "Vệ sinh yếu quyệt ".

- Đặc biệt, truyền thống thuốc nam của Thiền sư Tuệ Tĩnh, đã để lại tập quán trong nhân dân: trồng một số cây ở vườn chùa, vừa làm cảnh vừa làm thuốc, và ở gia đình, mọi người ít nhiều đều biết dùng một số cây gia vị, rau quả hay các vị thuốc thường có quanh mình, cùng các phép xông hơi, chườm nóng, xoa bóp, vân vân, để chữa một số bệnh ban đầu, khi mới xảy ra, rất tiện lợi.

☘Truyền thống y học của Thiền sư Tuệ Tĩnh, đã phục vụ đắc lực sức khỏe nhân dân từ bao đời nay, sự nghiệp trước tác của ngài, đã giữ một vị tri trọng đại nhất trong lịch sử y học Việt Nam.
Vì vậy, nhân dân ta đã lập đền thờ ngài: Đền Thánh thuốc nam ở quê hương thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, đền Bia ở thôn Vǎn Thai, xã Cẩm Vǎn, miếu Nghè ở chùa Giám, xã Tân Sơn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Ngài là Thượng đẳng phúc Thần - là Thành hoàng của xã Yên Lư, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.

Các thành phố lớn như TP.HCM, TP.Đà Nẵng,....  đã có những con đường “ TUỆ TỈNH “ để tưởng nhớ công ơn của một vị thiền sư là Y Tổ của Việt Nam.

P.S :Tư liệu tham khảo từ nhiều nguồn.