Giới thiệu
nh điển hình
Vu Lan 2007003
Cảnh đẹp66
Cảnh đẹp67
Cảnh đẹp68
Cảnh đẹp69
Cảnh đẹp70
Cảnh đẹp71
Cảnh đẹp72
Cảnh đẹp73
Cảnh đẹp74
Cảnh đẹp75
Cảnh đẹp76
Cảnh đẹp77
Cảnh đẹp78
Cảnh đẹp79
Cảnh đẹp80
Cảnh đẹp81
Cảnh đẹp82
Cảnh đẹp83
Cảnh đẹp84
Cảnh đẹp85
Cảnh đẹp86
Cảnh đẹp89
Cảnh đẹp90
Cảnh đẹp91
Cảnh đẹp92
Cảnh đẹp93
Cảnh đẹp94
Cảnh đẹp96
Cảnh đẹp97
Cảnh đẹp98
Cảnh đẹp99
Cảnh đẹp99
Cảnh đẹp100
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
sơn thuỷ hữu tình
TÌM KIẾM
Chùa Kim Quang giới thiệu





 
TIỂU SỬ TRƯỞNG LÃO HT. THÍCH GIÁC LƯỢNG 
 PHÁP CHỦ GIÁO HỘI PHẬT GIÁO TĂNG GIÀ KHẤT SĨ THẾ GIỚI



 
 

 
Trưởng Lão HT. Pháp Chủ Thích Giác Lượng
(1935 - 2020)

 


Thế danh: Đinh Ngọc Thanh.

Bút hiệu: Tuệ Đàm Tử.

Sinh ngày: 11 tháng 10 năm Ất Hợi (1935) tại xã Đập Đá, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Năm 1959: Quy y Tam bảo, theo học pháp với Đức Thầy Giác An và được ban pháp danh là Thiện Nhẫn. Người khuyên thân phụ cúng dường lô đất tại làng Bằng Châu và được Đức Thầy Giác An tiếp nhận thành lập nên Tịnh xá Ngọc Duyên.

Năm 1961: Tập sống hạnh xuất gia, ăn chay trường và thành lập Ban Xây dựng Đạo tràng Tịnh xá Ngọc Duyên (thôn Bằng Châu, xã Đập Đá, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định); được chư Tăng và các Phật tử tín nhiệm bầu làm Trưởng ban.

Ngày 12 tháng 4 năm Tân Sửu (1961): Xuất gia tu học.

Rằm tháng 7 năm Nhâm Dần (1962): Trưởng lão (Đức Thầy) Giác An chứng minh truyền giới Sa-di tại Tịnh xá Ngọc Cát (TX. Châu thành, TP. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận) và đặt pháp danh là Giác Lượng.

Từ 1963 – 1965: Được bổ nhiệm trụ xứ nhiều tịnh xá khắp miền Trung.

Rằm tháng 7 năm Bính Ngọ (1966): Thọ giới Cụ túc tại Tịnh xá Ngọc Phúc (TP. Pleiku, Gia Lai).

Từ 1967 - 1969: Nhận trọng trách làm Trưởng Ban Hoằng pháp của Giáo đoàn III và thuyên chuyển qua nhiều trụ xứ: Tịnh xá Ngọc Đà (TP. Đà Lạt, Lâm Đồng); Tịnh xá Ngọc Cát (TP. Phan Thiết, Bình Thuận); Tịnh xá Ngọc Bảo (Phan Rang - Tháp Chàm, Ninh Thuận); Tịnh xá Ngọc Pháp (TP. Nha Trang, Khánh Hòa); Tịnh xá Ngọc Phú (TP. Tuy Hòa, Phú Yên); Tịnh xá Ngọc Duyên (H. An Nhơn, Bình Định); Tịnh xá Ngọc Hạnh (Kon Tum); Tịnh xá Ngọc Phúc (TP. Pleiku, Gia Lai); Tịnh xá Ngọc Quang (TP. Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk).

Năm 1968: Giáo đoàn bổ nhiệm làm Trụ trì Tịnh xá Ngọc Duyên (huyện An Nhơn, Bình Định).

Năm 1970: Được Giáo đoàn suy cử làm Trị sự Trưởng Giáo đoàn III Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam (Trung phần).

Năm 1971: Làm Trưởng phái đoàn đại diện Giáo đoàn III tham dự Đại hội Khoáng đại toàn quốc; Thành viên Uỷ ban Soạn thảo Hiến chương Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam; Phó Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam; Vụ trưởng Vụ Xã hội của Giáo đoàn III.

Năm 1972: Thành lập Uỷ ban Từ thiện Xã hội tại tỉnh Khánh Hoà cứu trợ đồng bào từ các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Tín, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Pleiku, Kon Tum, tỵ nạn từ Nha Trang đến Phan Thiết, nhất là giúp đỡ các trại tạm cư tại TP. Nha Trang, Khánh Hòa.

Năm 1974 – 1978 (Nhiệm kỳ II): Phó Tổng Thư ký Viện Hành đạo Trung ương Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam; Trị sự Trưởng kiêm Trưởng ban Hoằng pháp Giáo đoàn III.
Năm 1981: Định cư ở Mỹ.

Năm 1982: Thành lập Pháp Duyên Tịnh xá ở thành phố San Jose, California, Mỹ quốc.

Năm 1983: Trong Đại hội của Giáo hội Phật giáo Tăng-già Khất sĩ Thế giới, tổ chức tại Tổ đình Minh Đăng Quang, quận Cam (Orange County), Giáo hội đã công cử Hòa thượng giữ trọng trách Viện trưởng Viện Hành đạo Trung ương Giáo hội Phật giáo Tăng-già Khất sĩ Thế giới.

Ngày 31 tháng 10 năm 2009: Nhận Bằng Tiến sĩ Danh dự TRIPITAKA MAHAPANDIT (Doctor of Tripitaka) tại Hội nghị Thanh niên Phật giáo Thế giới (WORLD BUDDDHIST YOUTH CONFERENCE), tại Thánh tích Bồ-đề đạo tràng, Ấn Độ (Bodhgaya, India).

Năm 2010: Sau gần 30 năm sinh hoạt tại thành phố San Jose, Trung tâm Sinh hoạt Phật giáo Pháp Duyên Tịnh xá được dời về thành phố Fresno, bang California.

Năm 1984: Xuất bản tờ đặc san Pháp Duyên mỗi quý.

Năm 1985: Làm Vụ trưởng Vụ Xã hội, chăm lo vấn đề uỷ lạo, cứu trợ đồng bào các trại tỵ nạn Đông Nam Á.

Năm 1986: Được tấn phong vào hàng Thượng toạ; Chủ nhiệm kiêm Chủ bút tạp chí Nguồn Sống và tạp chí Pháp Duyên; Thành lập chương trình Phát thanh Phật giáo hằng tuần, trên đài tiếng nói “Mẹ Việt Nam” thời gian gần 4 năm, và  phát trên đài “Quê hương” hơn 12 năm.

Năm 1986: Cứu trợ đồng bào tỵ nạn tại hai trại Palawan và Bataan của Philipine, nhận trách nhiệm làm Phó Chủ tịch Điều hành Hội An Việt tại Hoa Kỳ, nhiệm kỳ 1986-1990.

Năm 1987: Tổ chức phái đoàn đi uỷ lạo đồng bào tỵ nạn tại các trại ở Thái Lan như Panat Nikhom, trại Klong Yai, trại Site II Banthad, trại Krang Yai, trại Tha Luan, v.v...

Năm 1988: Nhận lời mời của Hòa thượng Tuyên Hóa, nhiều lần đến thuyết giảng kinh pháp tại Vạn Phật Thánh Thành và Phật Quang Sơn.

Ngày 30 tháng 3 năm 1990: Thuyết trình viên Hội thảo tại Đại lễ Tưởng niệm Quốc Tổ Hùng Vương, tổ chức tại thành phố San Jose.

Năm 1990: Giám đốc Nhà xuất bản Nguồn Sống.

Ngày 13, 14 tháng 7 năm 1991: Tham dự và làm Chủ toạ Đại hội An Việt Toàn cầu (An Viet International) tại Trung tâm Văn hoá Marcel Hicter - Bộ Văn hoá Pháp ngữ Vương quốc Bỉ, BRUXELLES.

Tháng 10 năm 1992: Làm Trưởng phái đoàn Phật giáo tại Hoa Kỳ tham dự Đại lễ Cầu nguyện Hoà bình Thế giới và Việt Nam tại Toà Thánh Vatican, Roma.

Ngày 29 tháng 10 năm 1992: Đại diện Giáo hội Phật giáo Tăng-già Khất sĩ Thế giới hướng dẫn phái đoàn tham dự Đại hội Liên hữu Phật giáo Thế giới lần thứ 18 tại Đài Loan.

Ngày 18, 19 tháng 10 năm 1994: Tham dự Đại hội Liên hữu Phật giáo Thế giới lần thứ 19 tại Bangkok, Thailand.

Ngày 28 tháng 3 năm 1998: Trong Đại lễ Kỷ niệm lần thứ 53 năm, ngày đức Tổ sư Minh Đăng Quang khai đạo, tại thành phố Westminster, California, Giáo hội Phật giáo Tăng-già Khất sĩ Thế giới chính thức tấn phong Ngài lên hàng Giáo phẩm Hoà thượng.

Năm 2002, 2003: Vận động Phật tử và cộng đồng Việt Nam cứu trợ đồng bào bị thiên tai bão lụt ở các tỉnh miền Trung và miền Nam Việt Nam.

Năm 2004, 2005, 2006: Liên tục tổ chức các Đại lễ Phật giáo – Lễ Vu lan, Lễ Phật đản, Lễ Tưởng niệm đức Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng, xiển dương tinh thần lục hoà trong Phật giáo.

Năm 2007: Tổ chức Hội thảo với chủ đề: “Thế kỷ 21 Phật giáo cho Hoà bình” tại Pháp Duyên Tịnh xá vào mùa Vu lan, Tự tứ Tăng. Có chư Tôn đức, thiện tri thức từ nhiều quốc gia về tham dự: Ấn Độ, Thái Lan, Lào, Campuchia, Sri Lanka, Bangladesh, Việt Nam, v.v… và nhân dịp này chính thức tuyên bố thành lập “Đoàn Du Tăng Thế giới”.

Ngày 29 tháng 9 năm 2009: Chứng minh Đại lễ Tưởng niệm 50 năm Bồ-tát Ambedkar tại tỉnh Nagpur, Ấn Độ. Đại lễ có trên năm triệu (5,000.000) người tham dự.

Ngày 01 tháng 10 năm 2009: Tại Đại Giới đàn Ambedkar, Hòa thượng cùng với Đại sư Nhật Bản chứng minh truyền giới xuất gia gieo duyên cho hơn sáu ngàn (6000) Phật tử.

Ngày 29 tháng 4 năm 2009:  Hoà thượng tuyên bố khởi sự lên đường hành đạo. Chiếc xe RV của Đoàn Du Tăng là chiếc thuyền Bát-nhã bắt đầu vượt sóng, trong cuộc hành trình từ San Jose đến miền Nam California, El Paso, Arizona, Texas, Houston, Dallas, Austin, San Francisco, Sacramento, Oakland, Stockton, v.v…

Ngày 31 tháng 10 năm 2009: Nhận Bằng Tiến sĩ Danh dự TRIPITAKA MAHAPANDIT (Doctor of Tripitaka) tại Hội nghị Thanh niên Phật giáo Thế giới (WORLD BUDDDHIST YOUTH CONFERENCE), tại Thánh tích Bồ-đề đạo tràng, Ấn Độ (Bodhgaya, India).

Ngày 14 tháng 11 năm 2015: Nhân Đại lễ Bách nhật cố Đại lão Hoà thượng Pháp chủ Thích Giác Nhiên, tại Tổ Đình Minh Đăng Quang, Hội đồng Giáo phẩm Trung ương suy tôn Hoà thượng lên ngôi vị Pháp chủ, lãnh đạo tối cao Giáo hội Phật giáo Tăng-già Khất sĩ Thế giới.

Năm 2016: Tổ chức trọng thể Lễ Vu lan tại Pháp Duyên Tịnh xá ở Fresno, bang California. Hơn 400 Tăng Ni, Phật tử về tham dự.

Ngoài thời gian lãnh đạo, hoạt động Phật sự, Hòa thượng còn dành thời gian viết sách, sáng tác thơ văn hoằng pháp để lại bút tích cho hậu nhân.

Hiện nay, có hơn 20 tác phẩm gồm thơ, kệ, văn xuôi dưới bút danh Giác Lượng đã được xuất bản. Còn có 10 tác phẩm gồm các thể loại, truyện thơ, tham luận, văn kiện chưa xuất bản.

Dưới bút hiệu Tuệ Đàm Tử, gần 20 thi phẩm được xuất bản ở Sài Gòn và hải ngoại.
Viết lời tựa, lời giới thiệu, lời bạt cho hơn 30 tác phẩm của nhiều tác giả là nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ.

Nói tóm lại, trong suốt 20 năm tu học tại quê nhà, Ngài đã đóng góp tích cực nhiều mặt cho sự phát triển của Giáo đoàn III và Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam (tiền thân của Hệ phái Khất sĩ).

Gần 40 năm hành đạo tại Hoa Kỳ, Ngài đã dấn thân hoằng dương giáo pháp, tổ chức ủy lạo, sáng tác thi ca, góp phần rất lớn cho sự phát triển Phật giáo Việt Nam tại Mỹ Quốc.

Hơn 80 năm hạ tiễn thu sang, cỗ xe tứ đại cũng đã mỏi mòn, thuận theo quy luật của vũ trụ tạo hóa, Trưởng lão Hòa thượng đã thâu thần viên tịch vào lúc 21 giờ ngày 30/11/2020 (giờ California, Mỹ Quốc), tương ứng lúc 12g30 ngày 17 tháng 10 năm Canh Tý ở Việt Nam, trụ thế 86 năm, hạ lạp 54 năm.